Thứ Sáu, 20 tháng 3, 2015

GIẬN MÀ THƯƠNG (NGUYỄN TRUNG PHONG; DÂN CA NGHỆ TĨNH)



GIẬN MÀ THƯƠNG (NGUYỄN TRUNG PHONG; DÂN CA NGHỆ TĨNH)
Khi em giận, anh vỗ về xin lỗi
Sợ u buồn làm lệ ướt mi em
Anh vẫn biết em chiều mưa sớm nắng
Giận thật nhiều nhưng vẫn cứ thương thôi !
Bài hát Giận Mà Thương đã được phổ biến rộng rãi và được hiểu là dân ca Nghệ Tĩnh. Thật ra không phải như vậy. Vào khoảng thập niên 60, Nghệ An có phong trào cải biên, phát triển và thể nghiệm dân ca. Những bài hát cải biên, phát triển thể nghiệm dân ca này được người dân ưa thích và được gọi là các làn điệu dân ca mới. Một trong những người chủ trì quan điểm dân ca như trên là ông Nguyễn Trung Phong, Phó trưởng Ty Văn hóa Nghệ An lúc đó. Ông là tác giả kịch bản, rất say sưa với việc đưa dân ca Nghệ Tĩnh lên sân khấu để thể hiện những đề tài hiện đại. Ở Nghệ An lúc đó, tuy chưa nhập với Hà Tĩnh thành một tỉnh, nhưng dân ca vẫn gọi là dân ca Nghệ Tĩnh.
Bài hát Giận Mà Thương sinh ra trên đất Diễn Bình, huyện Diễn Châu vào năm 1967. Trước đó, đội văn nghệ xã Diễn Bình đã dàn dựng vở dân ca "Không phải tôi", tác giả là anh Nguyễn Trung Giáp, lúc đó là Chủ nhiệm Hợp tác xã nông nghiệp Diễn Bình. Trong dịp một vị thứ trưởng Bộ Văn hóa về thăm Diễn Bình, đội văn nghệ xã biểu diễn chiêu đãi vở dân ca ấy. Vị thứ trưởng rất thú vị và khen rất hay. Sau đó, đội văn nghệ xã đi biểu diễn tại Hội nghị của tỉnh. Đoàn văn công tỉnh lấy vở này dàn dựng thành tiết mục chuyên nghiệp. Sau này đi dự liên hoan văn nghệ toàn quốc, vở kịch đã thành công tốt đẹp. Xưởng phim truyện miền Bắc Việt Nam quay thành bộ phim sân khấu dân ca.
Tiếp theo vở "Không phải tôi", đội Văn nghệ Diễn Bình dàn dựng vở "Khi ban đội đi vắng" của tác giả Nguyễn Trung Phong. Vở này nói lên tinh thần đấu tranh để xây dựng ý thức làm chủ hợp tác xã. Cuộc đấu tranh diễn ra giữa một cặp vợ chồng. Người chồng là lao động chính muốn lợi dụng khi ban đội đi vắng để buôn một chuyến chợ Lường (tức chợ Đô Lương). Người vợ kiên quyết không đồng ý và ngăn lại. Người chồng hiểu lầm và rất giận vợ. Người vợ phải phân trần, thanh mình lại với chồng.
Lúc này, sự biểu hiện của người vợ trên sân khấu bế tắc, vì trong các làn điệu dân ca nguyên gốc không đủ sức chứa đựng tâm trạng, kịch tính như mong muốn. Ông Nguyễn Trung Phong trực tiếp dàn dựng vở diễn, đêm nằm không ngủ, cứ lẩm nhẩm sáng tác một bài để nhân vật người vợ hát. Ông đã phác thảo ra bài Giận Mà Thương. Anh Thanh Tùng, cán bộ âm nhạc của tỉnh, chỉnh lý và ghi lại thành bản nhạc. Bài hát đã thể hiện thành công tâm trạng người vợ khuyên anh chồng đừng đi buôn. Đội văn nghệ Diễn Bình biểu diễn và bài hát Giận Mà Thương đã lan nhanh đi khắp nơi trong tỉnh, nhất là qua các đợt hội diễn.
Khoảng đầu năm 1969, nhạc sĩ Đỗ Nhuận, lúc đó là Tổng thư ký Hội Nhạc sĩ miền Bắc Việt Nam, đi công tác vào tuyến lửa. Đến Nghệ An, anh Văn Thế - cán bộ âm nhạc được cử đi cùng, đã hát rất nhiều bài dân ca địa phương để Đỗ Nhuận ghi âm. Trong đó có bài Giận Mà Thương. Nhưng anh Văn Thế lại quên giới thiệu tác giả. Có lẽ vì thế nhạc sĩ Đỗ Nhuận tưởng là một làn điệu dân ca nguyên gốc.
Ngâm thơ:
Anh ơi... ớ à khoan vội (mà) bực mình,
Em xin kể lại (mà) phân minh cho anh tỏ tường.
Anh cứ nhủ rằng em không thương
Em đo lường thì rất cặn kẽ
Chính thương anh nên em bàn với mẹ
Phải ngăn anh không đi chuyến ngược Lường
Giận thì giận mà thương thì thương
Giận thì giận mà thương thì thương
Anh sai đường thì em không chịu nổi
Anh yêu ơi xin đừng có giận vội
Mà trước tiên anh phải tự trách mình
Anh cứ nhủ rằng em không thương
Em đo lường thì rất cặn kẽ
Chính thương anh nên em bàn với mẹ
Phải ngăn anh không đi chuyến ngược Lường
Giận thì giận mà thương thì thương
Giận thì giận mà thương thì thương
Anh sai đường thì em không chịu nổi
Anh yêu ơi xin đừng có giận vội
Mà trước tiên anh phải tự trách mình
Ngâm thơ:
Chứ người ơi, em yêu anh cha mẹ nỏ ưng
Cấm em cửa trước thì em lại vòng ra cửa sau.
Em yêu anh cha mẹ đánh trăm roi,
Chứ xong rồi em đứng (ơ) dậy
Mà em quyết tâm thương chàng
Giận thì giận mà thương thì thương
Giận thì giận mà thương thì thương
Anh sai đường thì em không chịu nổi
Anh yêu ơi xin đừng có giận vội
Mà trước tiên anh phải tự trách mình.

-Lời của bài dân ca là thế này: "Anh ơi khoan vội bực mình/ Em xin kể lại phân minh anh tỏ tường/ Anh cứ nhủ (bảo) rằng em không thương/ Em đo lường rất chi cặn kẽ/ Chính thương anh em bàn với mẹ/ Phải ngăn anh đi chuyến ngược Lường/ Giận thì giận mà thương thì thương/ Anh đi sai đường em không chịu nổi/ Anh ơi anh, xin đừng có giận vội/ Trước tiên anh phải tự trách mình".
Rõ ràng, nghe hát, nhiều người không hiểu được người con trai ấy "đi sai đường", là đường gì mà khiến cô gái "không chịu nổi"? Lại nữa, "chuyến ngược Lường" nghĩa là sao? Họ là vợ chồng hay anh em ruột? (vì có chung người mẹ) v.v...
Xin thưa rằng, lời bài hát trên chỉ là trích đoạn trong vở kịch dân ca Nghệ Tĩnh "Khi ban đội đi vắng" của nhà viết kịch Nguyễn Trung Phong (1929-1990). Ông quê ở làng Trung Phường, xã Diễn Minh, huyện Diễn Châu, Nghệ An, nguyên Phó ty Văn hóa tỉnh Nghệ Tĩnh (gồm 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh hiện nay); là tác giả vở chèo "Cô gái sông Lam" nổi tiếng
"Khi ban đội đi vắng" là vở kịch ngắn, trong đó các nhân vật đối đáp với nhau, giải quyết xung đột bằng cách hát các làn điệu dân ca xứ Nghệ, giống như diễn chèo, cải lương vậy. Nhà viết kịch Nguyễn Trung Phong là một trong những người đầu tiên đưa dân ca Nghệ Tĩnh vào kịch.
Vào những năm đầu thập kỷ 70, một số vở ca kịch của ông, trong đó có "Khi ban đội đi vắng" đã được Đoàn chèo Nghệ Tĩnh và nhiều đội văn nghệ nghiệp dư của địa phương dàn dựng thành công. Năm 1973, Ty Văn hóa Nghệ Tĩnh cũng cho xuất bản tập kịch hát dân ca lấy tên là "Khi ban đội đi vắng", tập hợp một số vở kịch hát của các tác giả Nguyễn Trung Phong, Nguyễn Trung Giáp v.v...
Vở kịch ngắn "Khi ban đội đi vắng" kể về "anh cu Thành", lợi dụng lúc Ban đội đi vắng, định làm một việc phi pháp. "Ban đội" là gọi tắt của Ban quản lý đội sản xuất của Hợp tác xã nông nghiệp thời bao cấp. Nơi "anh cu Thành" nhắm tới là chợ Lường.
Chợ Lường ở mạn ngược, thuộc huyện Đô Lương, Nghệ An, nổi tiếng về buôn bán trâu bò và chè xanh. Dân ở mạn xuôi thuộc các huyện Diễn Châu, Yên Thành… lên mạn ngược mua trâu bò, khoai sắn, chè xanh về xuôi bán kiếm lời gọi là "đi ngược". "Anh cu Thành" tranh thủ "khi ban đội đi vắng", lên chợ Lường buôn lậu gọi là "đi ngược Lường". Trong vở ca kịch này, âm mưu của "anh cu Thành" là "ngược Lường" buôn lậu… chè xanh!
Đó là loại chè người ta chặt cả cành, bó lại thành mớ như mớ rau. Khi cần uống, cấu bớt cành, rửa sạch, cho vào ấm đun như… sắc thuốc bắc! Ngày ấy, đối với dân mạn xuôi, chè xanh là thứ... xa xỉ! Những ông cán bộ như Nguyễn Trung Phong, nhân tiện đi công tác mới dám mua mấy bó chè xanh về thết đãi hàng xóm.
Có lẽ thế hệ trẻ bây giờ, nhiều người không hiểu nổi vì sao thứ chè xanh ngày ấy lại khan hiếm và là hàng quốc cấm? Là bởi, thời bao cấp, hàng nông sản, thực phẩm như chè, lạc, trâu bò, lợn v.v. chỉ được phép bán cho Nhà nước; người nào mang chè xanh, chè búp, lạc v.v... đi bán kiếm lời được cho là buôn lậu.
Vì vậy, mới có chuyện "anh cu Thành" lợi dụng "Khi Ban đội đi vắng" để buôn lậu chè xanh! Bữa đó, Ban đội đi vắng, việc quản lý nhân sự trong đội sản xuất bị buông lỏng. Nhân cơ hội này, "anh cu Thành" quyết đi buôn chè xanh! Nhưng, âm mưu "đen tối" của anh ta nhanh chóng bị cô vợ vạch trần!
Khi biết được âm mưu của chồng, cô ta liền bàn với mẹ chồng, tìm cách chặn đứng hành vi sai trái của anh ta. Biết chuyện, mẹ của kẻ định buôn lậu này là bà Tâm, một đảng viên lâu năm, đã cùng con dâu lập phương án, chặn đứng hành vi "đi sai đường" của "anh cu Thành"!
Âm mưu bị phá, anh cu Thành trách vợ rằng không thương chồng. Cô vợ thanh minh rất quyết liệt rằng, dù anh có "giận thì giận mà thương thì thương", còn cô, trước âm mưu định đi buôn lậu chè xanh của chồng là "sai đường", cô không chịu nổi! Việc cô làm không phải là nông nổi, bồng bột mà đã "đo lường rất chi là cặn kẽ" và được mẹ chồng đồng tình ủng hộ. Anh không thể trách cô là không thương chồng được, mà hãy tự trách mình!
Đoạn thanh minh của người vợ với chồng trong vở ca kịch trên chính là nguyên văn của bài hát "Giận mà thương" mà lâu nay chúng ta được nghe. Và từ hoàn cảnh ra đời bài này có thể giúp thế hệ hôm nay và mai sau hiểu hoàn cảnh sống của một thời thiếu thốn!
(Sưu tầm)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét