Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

Những câu đoán bát tự thường dùng



Những câu đoán bát tự thường dùng (sưu tầm).

Sức khỏe

Tỷ kiên nhiều,cả đời ít ốm đau.
Nhật chủ cao cường, bình sinh ít bệnh.
Trụ có Thiên đức Nguyệt đức, cả đời ít bệnh.
Kim yếu gặp hỏa vượng, bệnh về đường huyết là chắc chắn.
Kim chủ về phổi, bị hỏa xung khắc, tửu sắc thành bệnh.
Thổ hư mộc vượng, nhất định tỳ vị bị tổn thương.
Mộc bị kim khắc, đau gân cốt, đau sườn, đau lưng.
Hỏa bị thủy khắc, mắt mờ.
Sinh mùa đông, mạng không có hỏa, chi dưới bị hàn lạnh.
Kiêu thần nhiều, thân lại nhược, phần nhiều bị bệnh phổi.
Hỏa thổ làm khô hết Quí thủy, bệnh về mắt.
Bính Đinh hỏa khắc hại Canh kim, bệnh đại tràng.
Ấn là hỏa thổ, nhiệt làm sinh đờm, tháo làm mình mẩy bị ngứa.
Kim thủy khô, thận hư.
Thương quan là kim thủy, hàn quá sẽ ho gió.
Thủy mộc sinh lẫn nhau, tỳ vị thương tổn .
Nhật thời Quan Sát tạp loạn, tật bệnh giao gia.
Kiêu đoạt Thực nên có bệnh.
Kim thần gặp thủy, vừa nghèo vừa bênh tật.
Nhật tọa Kiêu, hoặc Kiêu nhiều, bệnh do ăn uống mà gây ra.
Nhâm Quí gặp thổ vượng, chi dưới hư hao.
Kim gặp vượng thủy, bệnh về gân cốt.
Hợi Tý gặp Tỵ Ngọ, bệnh mắt.
Nhật yếu, Thực Thương nhiều, hay bị váng đầu.
Giáp mộc gặp hỏa nhiều, hay bị bệnh về thần kinh.
Trong trụ nhiều Hợi Tý, bệnh ở tiểu tràng, bụng dưới.
Tứ trụ hỏa nhiều, hồi còn thanh thiếu niên mặt nổi mụn nhọt.
Nữ phạm Thương quan, có bệnh khi sanh nở.
Mạng phụ nữ có Thiên đức Nguyệt đức, sanh sản không bệnh.
Nữ phạm Mão Dậu xung, chủ về trụy thai, khắc con.
Thương quan bị chế phục thái quá, đề phòng mắt đau, chân đau.
Dương nhẫn trùng trùng ba bốn chỗ, đề phòng đui điếc.
Thương quan trùng trùng, đề phòng đau ở eo, chân, xương.
Hình nhiều thế nào cũng bị thương tật.
Một Sát, ba Tài, hai hỏa chủ về bệnh mắt (Kỷ nhật).

Hỏa quá nhược hoặc tử tuyệt, dễ bị bệnh tim, bệnh bại huyết, viêm khớp, hôi chân, đau mắt. Tuổi còn trẻ thì dạ dày không tốt.
Mộc quá nhược hoặc tử tuyệt, phần nhiều bị váng đầu, hoa mắt, khí huyết không điều hòa, tóc thưa và mềm, có hiện tượng đau thần kinh, nếu nghiêm trọng sẽ đau gan, mật, tổn thương đùi và bàn chân.
Kim quá nhược hoặc tử tuyệt, chú ý khí hư, ho, da khô, đau khớp, lòi dom , đi tiêu ra máu, hô hấp không thông suốt, dễ cảm mạo, nếu nặng thì có thể bị bệnh phổi.
Thổ quá nhược hoặc tử tuyệt, có lúc da mặt bị vàng, kém ăn, chân tay uể oải , thích nằm ham ngủ, suy nghĩ vẩn vơ, không thích động tác, hay bị phù thũng, hôi chân, hôi miệng, bệnh về răng miệng, nếu nặng hơn một chút thì bệnh về hệ thống tiêu hóa, bệnh về da.
Thủy quá nhược hoặc tử tuyệt, dễ viêm thận, não xuất huyết, cận thị, bệnh ở hệ thống niếu đạo.
Mộc hỏa tương sinh mà lại quá vượng, thường cảm thấy tỳ vị căng đầy, sức ăn vẫn bình thường nhưng hễ ăn vô liền thấy no hoặc bị đè ép, ợ hơi, buồn nôn.
Kim thủy tương sinh mà quá vượng nên chú ý khí trệ, hen, ho , nghẹt mũi, hơi cảm thấy bồn chồn lo lắng, cảm thấy hiện tượng ngực dưới như bị thương, thở gấp, miệng khô khát.
Thủy mộc tương sinh mà quá vượng, nên chú ý tỳ vị hư, buồn nôn, hôi miệng, ợ hơi, kém ăn, thân thể suy nhược, mạch trầm yếu, phần bụng mềm yếu vô lực, mặt thiếu huyết sắc .
Thổ kim tương sinh mà quá vượng, hay khí hư, thường đầy bụng, bí đại tiện, khát nước.
Nguyệt lệnh tài tinh làm dụng thần, thời gặp Dương nhẫn, về già phát mệt mỏi, khốn khổ vì con cái .

Nghề nghiệp
Thực Thương phát tiết, hợp với những nghề văn chương, thư họa, giảng dạy, nghệ thuật.
Sát Ấn tương sinh, hợp theo nghề quân sự hoặc bác sĩ ngoại khoa, hoặc nhân viên cao cấp của xí nghiệp.
Quan Ấn rõ ràng, nên học chính trị hay pháp luật.
Tài Quan phù trợ lẫn nhau, nên học chính trị, pháp luật hoặc tài chính.
Thực Thương sinh Tài, nên học thương nghiệp, tiền tệ, tài chính, mậu dịch hoặc ngành nghề kinh doanh mang tính kỹ thuật.
Thân Tài lưỡng đình (mạnh bằng nhau), hợp thương nghiệp, mậu dịch.
Thương Quan Thương tận, hợp nghề võ, như quân sự, cảnh sát.
Sát Ấn tương sinh, hợp nghề võ, như quân sự, cảnh sát.
Thân nhược không có trợ giúp, tốt nhất đừng nên kinh doanh một mình.
Thân vượng không nương tựa, tốt nhất đừng nên kinh doanh một mình.
Ngũ hành cần thủy, hợp ngành nghề lưu động hoặc chức vụ ngoại giao.
Mạng có Dịch Mã, hợp ngành nghề lưu động hoặc chức vụ ngoại giao.
Ngũ hành quá khô, công tác trồi sụt biến động luôn luôn.
Bát tự bệnh nặng thuốc nhẹ(dụng thần yếu), làm việc luôn tự bỏ công bỏ sức ra mà kết quả không lý tưởng mấy.
Bát tự bệnh có thuốc chữa (dụng thần vừa đủ), làm ít mà kết quả nhiều, không tốn sức.
Tỷ Kiếp trùng điệp, không hợp làm quan hoặc nghề công thương nghiệp, nên theo nghề y, kế toán, thầy giáo hoặc ngành nghề tự do là hợp nhất.
Nhật chủ quá yếu, hợp mấy nghề kỹ xảo, nhất nghệ tinh nhất thân vinh.
Chính Quan là mộc, nhân cách thanh liêm chính trực mà nhân từ, và cũng biết khống chế bản thân, biết kết hợp với xã hội, đoàn thể, nên rất thích hợp mấy nghề quản lý như hành chính, tư pháp, CEO.
Chính Quan là hỏa, cá tính rất mạnh, cho nên thường “ Lộ thấy bất bình, bạt đao tương trợ”, có uy, cũng hợp nghề văn hóa, giáo dục, nghệ thuật.
Chính Quan là thổ, cá tính ôn hòa, đồng thời cũng là người chính trực, trên các mặt đều biểu hiện ngay thẳng và khoan dung, tuy nhiên cũng thích hợp nhiều ngành, xử lý sự việc quyết đoán, nghĩa khí, đồng thời khái niệm kinh tế cũng rất chính xác, thích hợp với nghề tài chính, kinh tế, tiền tệ, quân đội cảnh sát.
Chính Quan là thủy, cá tính xuề xòa nhưng cũng rất lý tính, có mưu trí, thích hợp phát triển trong ngành công thương , thủy sản…
Thân cường Sát vượng đới Nhẫn, phần nhiều là nghề võ, xây dựng, hoặc bác sĩ ngoại khoa.
Hoa Cái hoặc Văn Xương hoặc Không Vong đồng trụ với Chính Ấn, người này có thể thành công trong giới học thuật, văn hóa, tôn giáo.
Trụ có Thiên Ấn (Kiêu), rất nhạy cảm với sự việc, cho nên hợp mấy nghề điều tra, trinh sát, tình báo, và cũng hợp những nghề không chính thống như nghệ nhân, mở quán, minh tinh, hoặc những nghề làm ăn dựa vào nhân duyên.
Tài chế Thiên Ấn, sẽ thành công trong ngành nghề thực nghiệp (sản xuất).
Chính Quan Thiên Ấn tương sinh, nghề gì có làm công ăn lương là hợp.
Tỷ Kiên và Kiếp Tài là hỷ dụng, hợp ngành nghề kinh doanh hùn hạp, công ty, cơ cấu có chia cổ phần, cũng có thể tay trắng làm nên.
Mạng có Kiếp Tài Dương Nhẫn, Thực Thương yếu hơn Quan Sát, nên ráng theo nghề lao động trí óc, hoặc chuyên một môn có tính kỹ thuật đặc thù.
Mạng có Kiếp Tài Dương Nhẫn, Thực Thương yếu hơn Quan Sát, nên theo nghề “phá hoại” như quân nhân, tình báo, cảnh sát, công trình phá nổ, phát minh…
Thực Thần cách có cả Chính Quan và Thất Sát, hợp theo nghề không sản xuất, như y bốc tinh tướng, tam giáo cửu lưu…
Thực Thần và Chính Ấn đồng trụ, mà Ấn là dụng thần, hợp nghề viết lách.
Thân vượng, Tỷ Kiên mạnh, tránh kinh doanh hoặc đầu cơ mạo hiểm, tốt nhất làm công chức hoặc làm ăn ổn định.
Thực Thần là dụng thần, thích ca hát, biểu diễn.
Thực Thần sinh Tài, lợi kinh doanh dược phẩm, ăn uống, bánh trái, thức ăn gia súc, chăn nuôi gia cầm…
Thực Thần cách, mà Kiếp Tài Thiên Tài mạnh hơn Tỷ Kiên Chính Tài, hợp phát triển mấy nghề ca hát, âm nhạc, mỹ thuật, múa, thiết kế thời trang, thẩm mỹ…
Nhật chi tọa Thương Quan hoặc thiên can thấu Thiên Quan, hợp nghề kỹ thuật, sản xuất, học giả.
Kim thủy Thương Quan, giỏi hùng biện, hợp những nghề ăn nói, MC, tuyên truyền…
Thân vượng Thương Quan nhiều, lại không có chế hóa, mạng đi tu, nghệ thuật gia…
Thân vượng Tài nhẹ, hợp nghề kỹ thuật.
Có Tài tinh và Dịch Mã, hợp giao thông vận tải, buôn bán, thông tin, truyền thông…
Thân vượng Thiên Tài vượng, không bị Không phá, mạng cự phú.
Thân vượng Thiên Tài vượng, có Không phá, nhà kinh doanh nhỏ, hoặc nhà kinh doanh giỏi giao tế.
Thiên Tài gặp Thương Quan, theo nghề có tính thách thức, mạo hiểm, đầu cơ như mậu dịch, gia công, nghiệp vụ, marketing…
Thiên Tài gặp Chính Quan, nên theo nghề công vụ viên, thư ký, hành chính…
Tài đa thân yếu, Tỷ Kiên làm dụng thần, hợp làm ăn hùn hạp với bạn bè.
Tài đa thân yếu, Kiếp Tài làm dụng thần, đừng nên hợp tác với bạn bè, mà phải kinh doanh một mình.
Nữ mạng có Đào Hoa, Quí Nhân, Hoa Cái, phần nhiều là diễn viên hoặc là ca sĩ nổi tiếng.
Kiếp Sát gặp Chính Quan, mà Chính Quan là hỷ dụng thần, người này dáng vẻ uy nghiêm, ai gặp cũng nể, hợp nghề quân sự hay quan chức có tính chất phán đoán quả quyết.
Mạng có Không vong và Đào Hoa, phần nhiều là nghệ nhân trong dân gian.
Căn cứ vào ngũ hành để chọn nghề thích hợp:
Tứ trụ hỷ (cần) kim, nên theo nghề nghiệp có liên quan tới kim, như kinh doanh dụng cụ kim loại, máy móc của nhà máy, xe hơi, giao thông, tiền tệ, electronics, công trình, khai khoáng. Sự nghiệp phát triển lợi hướng Trung Tây, không lợi Đông Nam.
Tứ trụ hỷ thủy, nên theo nghề nghiệp có liên quan tới thủy, như chạy việc bên ngoài, có tính lưu động, làm đá, trữ lạnh, hàng hải, du lịch, nhà thể thao, ký giả, hotel…Lợi hướng Tây Bắc, bất lợi Trung Nam.
Tứ trụ hỷ mộc, nên theo nghề nghiệp có liên quan tới mộc, như lâm nghiệp, trồng trọt, kinh doanh đồ gỗ, đồ nội thất gỗ, văn nghệ, văn học, thầy giáo, nhà văn, giáo dục, hiệu sách, nhà xuất bản,công vụ, tư pháp, y liệu. Lợi Đông Bắc, không lợi Tây Nam.
Tứ trụ hỷ hỏa, nên theo nghề nghiệp có liên quan tới hỏa, như nhà máy, lò gạch, phát sáng, dầu, xi măng, ăn uống nóng, thực phẩm, quân giới, bách hóa, phát điện, diễn thuyết, chính trị, tôn giáo. Lợi Đông Nam, không lợi Tây Bắc.
Tứ trụ hỷ thổ, nên theo nghề nghiệp có liên quan tới thổ, như cố định thực nghiệp, khoáng mỏ, nông nghiệp thu hoạch, người trung giới, giới thiệu, luật sư, quan tòa, quản lý, cố vấn, thư ký, nhà đất bất động sản, kiến trúc, thiết kế… Lợi Trung Nam, bất lợi Đông Bắc.

Quan vận công danh
Quan ở vượng địa, rạng rỡ tổ tông.
Sát cư thái tuế, dù đang bình an cũng nên đề phòng.
Ấn thụ thông căn, gặp Quan liền quí.
Thìn Tuất Sửu Mùi tứ khố toàn mà thuận hành, mạng đế vương.
Tý Ngọ Mão Dậu tứ xung đắc thời, mạng đế vương (đắc thời tức nhật can vượng ở nguyệt lệnh).
Thất Sát có chế ngự, Dương Nhẫn không bị xung, cực quí, tướng của các tướng, chủ có quyền sinh sát (Thực Thần chế Sát, thân không được quá vượng).
Bính hợp Tân sinh, là tướng nắm giữ uy quyền (Nhật can Bính gặp tháng Tân Dậu hoặc nhật can Tân gặp tháng Bính Thân).
Sát Nhẫn rõ mà mạnh bằng nhau, chức tước tới Vương hầu (Thân phải vượng).
Kiếp Tài Dương Nhẫn, có Quan Sát, làm quan sang quí (Thân không được quá vượng hoặc quá nhược).
Mạng gặp tam kỳ, có tam hợp nhập cục, quốc gia lương thần.
Nhật thời củng lộc, là mạng quân tử rất quí, dễ được tước vị cao.
Củng quí mà thuần túy, mạng quí cấp tướng.
Sát vượng Ấn nhẹ, làm quan nhất định là quan võ.
Niên thời Quí nhân giao nhau, không có tử tuyệt xung phá không vong, nếu hỷ dụng thần phối hợp thích nghi, nhất định quí đến cực phẩm.
Thương Quan có Nhẫn, có tài làm tướng.
Thiên Quan có chế phục lại được sinh, uy trấn biên cương (Có Thực chế, có Tài sinh).
Trong trụ kim thủy tương sinh, quan to trong triều ( Thủy sinh tháng kim, không có thổ tạp lẫn).
Quan Ấn ở trụ năm và tháng, làm quan hay lui tới cung điện.
Có lộc và lộc đó hợp, làm quan cao ( Hợp sinh hoặc hợp quí).
Kim Thần đới Ấn, tham mưu trong nội các.
Tháng đới Quan Ấn, khảng khái thông minh, kiến thức cao, có công phò tá.
Tướng tinh cùng chỗ với Vong Thần, bậc đống lương của quốc gia.
Trên trụ tháng có Thất Sát, trên trụ giờ có Thực Thần chế ngự, nhật nguyên mạnh, tất là tướng của các tướng.
Trong trụ Ấn nhiều Tài lộ, rất muộn mới ra làm quan (Không có Sát).
Hoa Cái và Ấn tinh củng hội, là bậc lương thần như Quản Trọng.
Tài sinh Thất Sát, quyền uy trên cả vạn người, có thêm Ấn tương phù, làm quan cao cực phẩm.
Phúc Đức gặp Tài mà Quan ẩn, chức vụ rất cao ( Thiên Nguyệt Đức, Tài thấu Quan tàng).
Thương Quan thấu, Chính Quan ẩn, gặp Sát Ấn Tài, vị trọng quyền cao.
Thực Thần đới Nhẫn tọa Quan, làm quan Nhất phẩm (Nhật tọa Quan).
Tứ trụ Sát vượng, thân vượng là quan thanh liêm ( Trong trụ không có chút Quan tinh nào).
Có Quan có Ấn không bị phá, quan trong triều (Không có xung phá, Không vong).
Trong trụ có Dương Nhẫn, tam hình, tự hình, Khôi Canh, phát ở nơi biên giới (Thân phải nhược).
Nhật thời có Mã, làm quan thanh quí ( Ngày lộc giờ Mã, hoặc giờ lộc ngày mã, hoặc ngày giờ đều là Mã tinh).
Quan Sát rơi vào Không vong, nhậm chức hờ trong xã hội.
Canh Tân cục toàn Tỵ Dậu Sửu, vị trọng quyền cao.
Thương Quan gặp quí, quan cao ( Thương Quan thương tận).
Nhuận hạ cách, quan cấp dưỡng.
Giá sắc cách, quan cấp dưỡng.
Mã đầu đới kiếm trấn thủ biên cương.
Lộc Mã đồng vị, quan cao hiển hách.
Ấn lâm Thiên Ất, mấy đời làm quan.
Quan ở cung giờ, mạng cường, tuổi về già được phong quan.
Mã ở trụ giờ, tuổi già được tấn phong chức tước (Nguyệt lệnh Chính Tài cách, không xung khắc, mạng vượng).
Tam hình gặp quí, chấp pháp có quyền.
Thuần dương địa bao âm, binh quyền hiển hách.
Mã gặp đế vượng, trụ không có hình thương khắc hại, thăng quan tiến chức.
Quan tinh đới Đào hoa, rất quí.
Khôi Canh đới Sát phùng xung chiến, tính cao cường mà nắm quyền sinh sát.
Sát có Thực mà không có Kiêu thần, nếu không nắm quyền sinh sát cũng nắm chức quân đội, hình cảnh.
Tài trước, sau là Ấn, mỗi năm thăng quan một lần ( Trụ năm Tài trụ tháng Ấn hoặc tháng Tài giờ Ấn).
Lộc nhiều có Ấn phù trợ, chức vị cao hiển hách.
Quan Ấn không có Nhẫn không có Sát, quan vị thanh cao.
Nhật là Khôi Canh dễ nắm đại quyền.
Hoa Cái lâm vượng tướng, quyền cao chức trọng.
Thất Sát có chế ngự, hưởng lộc phong hậu.
Tứ trụ thuần dương, Thiên Ấn nhiều, ngôi vị cao ( Không có Thực Thần).
Sát Ấn đồng vị, ăn to nói lớn, gặp vận tốt sẽ có chức vị cao trong quân đội.
Thương Quan gặp Tài, quan cao mà tiền tài cũng khá.
Thực Thần sinh vượng đới Lộc Mã, văn thì nhậm chức hai tỉnh, võ thì đóng quân hai tỉnh.
Thực Thần đới hợp, làm quan nắm quyền nắm con dấu (hợp Ấn).
Dương Nhẫn gặp Ấn, người có lắm mưu kế.
Chi là Dương Nhẫn, can là Quan , trụ tháng và trụ giờ mà có thì rất hiển hách.
Vào ra nơi quyền quí, trên đầu quí nhân phải là Quan tinh ( Trụ tháng có Thiên Ất quí nhân).
Kim thần đới Sát, nhất định là quan quí.
Tháng là Sát Ấn, giờ là Thương Quan, làm quan rất được tín nhiệm.
Tài Quan đều đẹp, thấu Tài Ấn, làm quan chủ chốt cấp tỉnh ( Ngày Quí Tỵ tọa hướng tháng Tỵ, ngày Nhâm Ngọ tọa hướng tháng Ngọ, can thấu Tài Ấn).
Năm Chính Ấn, tháng Chính Quan, nhậm chức giáo dục.
Thương Quan đới Ấn, nhậm chức chỉnh đốn kỷ cương trong triều .
Quan gặp Vong Thần, Kiếp Sát thêm Thất Sát nữa thì là võ tướng.
Dần Thân Tỵ Hợi toàn, vị trọng quyền cao.
Trụ không Tài cũng không có Quan, khó mà có chức tước.
Trong trụ Thương Quan gặp Quan, không có Tài thì không có chức vị.
Có Quan mà không có Ấn, quan giả.
Quan tinh sợ hình xung hại, không lợi làm quan.
Quan tinh không nên thấy cả hai, sợ rằng làm quan không lâu.
Quan Sát hỗn tạp, không quí hiển được.
Tài tinh yếu, làm quan không lâu.
Trụ năm Thiên Quan, sẽ một ngày khắc hại.
Quan ngồi trên đầu Dương Nhẫn, thế nào cũng bị hình thương ( Như nhật can Giáp sinh tháng Tân Mão).
Người sinh ngày Canh Tuất, Canh Thìn, có Quan Sát đến phá, bất lợi làm quan.
Quan nhược, Tài nhược, không nên làm quan.
Ấn thụ toàn vẹn sinh thân, cửa nhà vẻ vang ( Ấn lợi vượng địa, không có Tài khắc Ấn).
Tài vượng sinh Quan, khởi nghiệp từ thưở thiếu niên ( Tiền đề là thân phải vượng).
Tài Quan Ấn đều toàn, thi đậu cao, dễ nổi danh.
Hỏa minh mộc tú, nhật chủ cường, có tố chất làm Trạng nguyên ( Xuân mộc gặp hỏa).
Ngày Quí, giờ Dần hình hợp, đi thi đậu tốp đầu bảng ( Gặp Tỵ).
Tháng Ấn sinh cho ngày, không có Tài tinh, văn chương giỏi giang, đi thi là đậu.
Thiên Nguyệt Đức lâm Tướng tinh, đậu cao.
Thương Quan bội Ấn mà Tài là dụng thần, nghề văn nổi tiếng .
Mã tinh hội ở Học Đường, có tài học.
Sinh phùng Hoa Cái, văn chương nghệ thuật.
Hỏa thịnh, văn chương sáng láng.
Kim thủy Thương Quan đắc lệnh, văn chương đầu bảng (Ngày kim sinh tháng thủy).
Can thấu Tài Ấn đều đẹp, trung niên thân đáo phụng hoàng đài ( Ấn phải có căn).
Trụ giờ Thực Thần cưỡi Lộc Mã, có danh tiếng dễ như trở bàn tay.
Tài Quan Thực, thông minh tú khí, văn tài xuất chúng.
Văn khố Tuất thổ bị xung mở, văn chương phát ào ạt.
Chính Ấn qui Lộc, quan ở Viện Hàn lâm nắm quyền thi cử.
Nhật cường Ấn vượng gặp Quan, đọc sách hơn vạn quyển.
Niên nhật nguyệt thời trong một Tuần, có tên trong bảng vàng.
Trụ năm có Ấn thụ phúc vô cùng, thụ ơn tập ấm lập công danh.
Đảo xung Lộc Mã, tuổi trẻ thành danh ( Ngày Bính Ngọ nhiều Ngọ, không có Mùi; hoặc Ngày Đinh Tỵ nhiều Tỵ, không Thân Thìn, không Quan Sát).
Qui Lộc gặp Tài gặp Văn Xương, nổi danh nghệ thuật.
Qui nhân Lộc Mã ở trụ giờ, rạng rỡ tổ tông.
Đinh Nhâm hóa mộc ở giờ Dần, văn chương cái thế thiên hạ ( Ngày Đinh giờ Nhâm Dần).
Ất mộc gặp giờ Bính Tý, Quan không bị xung hại rất thanh kỳ, dương danh bốn biển ( Không có xung hình hợp).
Tỷ Kiếp trùng trùng, tất có tranh đoạt, phải tranh mới thắng.
Thân suy Ấn nhược, đừng tới trường thi.
Thiên Quan bị chế phục thái quá, là nhà Nho nghèo.
Mệnh gặp Ất Bính Đinh, đới Không vong sinh vượng, ẩn sĩ trong núi.
Hình xung Dương Nhẫn, không thích học.
Tài nhiều Ấn ít thân nhược, có học vấn đi nữa cũng nghèo.
Có Sát không có Ấn thiếu văn tài.
Có Ấn không có Sát thiếu uy phong.
Ấn bị phá Tài bị thương, đừng ham tìm kiếm công danh.
Thiên Ấn nhiều, học nhiều thành tựu ít.
Nhật yếu Thực Thương lại nhiều, sợ học.
Nhật trụ Tài nhiều Tài vượng, không phải là người có học.
Thương Quan đới Ấn, có đảm thức thao lược, thành công vượt quá sức tưởng tượng của mọi người.
Thương Quan thân vượng Tài vượng, có tên bảng vàng (Chỉ Thương Quan thương tận).
Thực đàng trước Sát đàng sau, người công danh hiển đạt ( Thực tại năm tháng, Sát tại ngày giờ).
Thương Quan Dương Nhẫn đới Thất Sát, bảng vàng đề tên.
Giáp mộc Thương Quan gặp Dần Ngọ Tuất, hỏa minh mộc tú có thanh danh.
Sát tàng Quan lộ, ẩn ác dương danh, ai mà gặp phải, danh chấn hương bang.
Trụ tháng Sát cùng Nhẫn, nổi danh.
Tàng Ấn lộ Tài tự thân vượng, công danh hiển vinh.
Quan sinh năm, lưu danh thiên cổ.
Sát sinh năm, lưu danh thiên cổ.
Tỷ Kiên gặp Lộc, anh em danh cao.
Thời tọa Chính Quan, có tuổi mới thành danh.
Năm gặp Quan quí, tài cao, tuổi trẻ thành danh ( Thân vượng).
Trụ giờ có một Thiên Quan, dương danh vạn dặm.
Thương Quan không có chút Tài tinh, tuy thông minh cơ xảo cũng chỉ hư danh hư lợi.

Cha mẹ

Trụ năm hoặc trụ tháng gặp quí nhân, cha mẹ tướng mạo đẹp đẽ, thanh nhã.
Trụ năm hoặc Chính Ấn tọa Dịch Mã, ông cha hoặc cha mẹ hay đi buôn bán xa.
Trụ năm gặp Ấn, Học đường Từ quán, cha mẹ hiền lành, ông bà cha mẹ dòng dõi thư hương.
Trụ năm gặp Thiên đức Nguyệt đức, cha mẹ tâm địa hiền lành, có phước, hay làm điều thiện tích công đức.
Niên trụ Thực Thần mà không có Kiêu, cha mẹ to béo khỏe mạnh, tính cách thành thực.
Trụ năm gặp Chính Ấn Quan tinh, cha mẹ văn chương giỏi giang, làm quan hiển hách.
Chi năm Quan tinh gặp Tướng tinh, cha mẹ quí hiển, trung hậu .
Chi năm Tài tinh đắc lộc đắc quí, cha mẹ vinh hoa phú quí.
Chi năm là lộc, mà chi năm là quí nhân của can năm, gọi là đắc quí đắc lộc, cha mẹ là phú hào.
Can năm tọa Thiên đức hoặc Nguyệt đức là cha mẹ hiền từ lương thiện.
Chi năm hoặc Chính Ấn gặp Đào hoa, mẹ đẹp lại thông tuệ.
Thiên Tài qui lộc, cha rất vẻ vang.
Ngày có Tài, giờ có Kiếp, cha hưng vượng, con sa sút.
Trong trụ Thiên Tài gặp vượng địa, cha sống lâu.
Ấn gặp Trường sinh, mẹ sống lâu.
Chi ngày sinh chi năm, vợ có hiếu với mẹ chồng, hoặc quan hệ mẹ chồng con dâu rất tốt.
Chi năm hoặc Chính Ấn đóng trên Hoa cái, cha mẹ thông tuệ mà tính cô(quả).
Thìn Tuất Sửu Mùi toàn, ruột thịt chia lìa, thiếu cha hoặc mẹ.
Lệnh tháng bị xung, tổn cha mẹ hoặc người thân hoặc ly dị ( Xung gần).
Đề cương khắc năm, cha mẹ không toàn ( Ngũ hành của lệnh tháng khắc nạp âm của năm, hoặc chi tháng khắc chi năm).
Thiên Tài gặp Không mà Ấn vượng, cha mất sớm.
Tỷ Kiếp trùng điệp, cha mẹ khó thọ.
Phụ đóng ở mộ khố, cha mất trước.
Chi năm Thất Sát đới Dương Nhẫn, cha mẹ dữ, không có tiền và phước đức.
Tháng có Dương Nhẫn, khắc cha.
Tháng sinh can ngày, không nên gặp Tài, nếu gặp khắc mẹ hoặc mẹ có bệnh.
Ấn bị xung khắc, mẹ không chết cũng xa lìa.
Trụ có Kiêu và Thực gặp nhau, khắc mẹ.
Ngày giờ đều là Thực Thần, khắc mẹ.
Tài Ấn đều bị tổn thương, khắc mẹ, vợ mất.
Niên chi Ấn lâm Cô thần Quả tú, cha mẹ cô độc, không dựa thân thích.
Năm có Chính Quan bị Thương Quan xung khắc là cha mẹ nhiều bệnh va không thọ ( Thương Quan vượng Quan nhược, hoặc Thương Quan ở trụ tháng khắc thì mới nặng).
Ấn nhiều Quan Sát nhiều, cha mẹ không giúp đỡ gì được.
Chi ngày xung chi năm, mẹ không chết cũng xa lìa.
Trụ gặp Thiên Tài hai lần, mẹ lấy hai đời chồng,
Trụ hai lần gặp Ấn, cha tất có hai vợ.
Chính Ấn Thiên Ấn gặp nhau, nhất định có mẹ kế.
Quan vượng Ấn suy, cha mẹ anh em phân tán.
Tài nhiều Ấn nhược, cha mẹ nhiều bệnh.
Thực ở chi năm bị Kiêu vượng khắc, cha mẹ nhiều bệnh.


Con cái
Quan tinh sinh vượng, giờ lại có Trường sinh, con cái thông minh xinh đẹp.
Quan tinh đóng ở Đế vượng, con cái sẽ vinh hiển.
Cung thê hiển lộ, con cái nhiều.
Thương Quan gặp Tài, có con.
Thất Sát có chế ngự, nhiều con.
Tài Quan sinh cho trụ giờ mà lại sinh vượng, có đứa con giúp nước lợi nhà.
Gặp Chính Quan nhiều là sinh con gái nhiều, ít con trai.
Một Thực Thần thấu can là dụng thần, vừa có con lại vừa thọ.
Quan tinh đắc lộc ở ngày giờ, sinh con học giỏi đậu cao.
Thất Sát có chế hóa là uy quyền, có con rất tài giỏi.
Giờ có quí tinh của ngày, về già còn sinh quí tử.
Thực Thần làm dụng thần, sinh con cái hiền lành hiếu thảo.
Thất Sát ở trụ giờ, có Thực Thương chế ngự, con cái quí hiển.
Ấn đóng ở cung vị tử tức, con cái hiếu thuận, có thể thành gia lập nghiệp.
Nữ mạng gặp Thiên đức Nguyệt đức, con cái đậu cao.
Trụ giờ Thương Quan Mã tinh, con cái sinh ở nơi xa hoặc đi xa nhà.
Trụ giờ tọa Tài tinh , con cái thành gia lập nghiệp, hiếu thuận giàu có.
Trụ giờ tọa Thực Thần, con cái xinh đẹp mà mập mạp.
Chi giờ đóng Chính Quan, con cái tướng mạo đôn hậu, tính tình hiền hòa, trung thực.
Chi giờ hoặc Thực Thương đóng Hoa cái, con cái thông minh nhưng tính cô, mà còn chủ sinh con gái không sinh con trai.
Chi giờ hoặc Thực Thương đóng Đào hoa, con cái phong lưu, ham tửu sắc.
Chi giờ hoặc Thực Thương đóng Dịch mã, là con gái sinh ở đất khách quê người hoặc đi xa.
Thực Thương có quí nhân, con cái thông tuệ phú quí.
Chi giờ hoặc Thực Thương đóng Thiên đức Nguyệt đức, con cái tâm địa hiền lành, hiếu thảo.
Chi giờ hoặc Thực Thương đóng Trường sinh, con cái nhiều mà sống lâu.
Giờ đóng Thiên Ấn mà lại là hỷ dụng, con cái thành tài.
Chi giờ đóng Thất Sát có chế ngự và là hỷ dụng, con cái nhiều và quí hiển.
Mạng hỏa sinh mùa hè, thân thể tráng kiện thông minh.
Mạng thổ sinh mùa hè, thân thể tráng kiện thông minh.
Mạng kim sinh mùa thu, thân thể tráng kiện thông minh.
Mạng thủy sinh mùa đông, thân thể tráng kiện thông minh.
Giờ có Thương Quan, con cái lì lợm.
Trong trụ Thực Thương nhiều, khó có con.
Ấn thụ Kiêu thần, khó có con.
Cung con gặp mộ, con không bệnh cũng có lao tù, hoặc có tật, khó nuôi.
Thiên Tài Thiên Quan Thiên Ấn là con vợ thứ, nếu không cũng là con thứ ba thứ tư.
Sát đới hình, khắc tử.
Mẹ rõ cha mờ, phần nhiều là sinh trộm ( Ấn nhiều Tài ẩn).
Mạng nữ phạm Thương Quan Thiên Ấn, táng tử hình phu.
Ngày giờ Thìn Tuất xung, con khó đậu cao.
Mạng nữ đóng Hoa cái gặp Không vong, cả đời không sinh nở.
Mạng con nít thân nhược Sát vượng trùng điệp, không chết cũng tàn tật.
Thực Thần trùng điệp, Kiêu thần quá vượng, không có sữa.
Nữ mạng Quan tinh ở tử tuyệt, lại tiết khí quá nhiều, khắc con hoặc không có con.
Thìn Tuất Sửu Mùi toàn, đã khắc chồng lại còn không sinh con.
Nữ mạng có Mộc dục, con trưởng tất yểu.
Trụ ngày gặp hình xung phá lại thêm Nhẫn, khắc con trưởng.
Quan hưu tù lại bị khắc, con yểu chiết.
Thương Quan quá vượng, nhận nuôi con của chị em.
Bốn chi đều có Thương Quan, khóc con.
Thực Thần phá dụng thần, con là đứa phá gia chi tử.
Ngày vượng, Thực Thương Quan Sát rơi vào Không vong, không có con.
Năm tháng Tài tinh khắc trụ giờ Ấn, coi chừng con bị chấn thương tàn tật.
Quan tinh ở trụ giờ yếu, có con khó nuôi.
Thực Thương gặp xung, bất lợi cho con cái.
Giờ gặp Thương Quan, có con không theo con đường học hành.
Giờ đóng Thiên Ấn, con cái tính tình không lương thiện.
Giờ đóng Kiếp Tài, con nhiều nhưng chỉ phá.
Chi giờ đóng Thất Sát không có Thực chế ngự, con cái tính thô bạo, không nghe dạy dỗ.
Giờ có Dương Nhẫn, con cái tính cọc, bất hiếu.
Giờ có hình hại bất lợi con, hoặc hay bệnh.
Giờ ở nơi tuyệt địa coi chừng không người nối dõi.
Toàn trụ Thất Sát không chế ngự, không con.
Ngày đóng Thiên Ấn, vợ thường sinh non.
Chi ngày giờ xung nhau, đến trung niên coi chừng con cái hoặc vợ gặp họa.
Kiêu Thực gặp nhau bất lợi con cái.
Gặp cả Kiêu lẫn Thương Quan, mà Kiêu mạnh hơn, khắc con.
Gặp cả Ấn lẫn Thực, mà Ấn mạnh hơn, khắc con.
Can giờ khắc can năm, sinh con trai không được suôn sẻ.
Can giờ khắc can ngày, con không nghe lời cha.
Kiêu mạnh, thương tổn con.
Mạng nam can giờ khắc can ngày, con đầu thường là trai.
Mạng nữ can giờ khắc can ngày, con đầu thường là gái.
Can giờ là Tỷ Kiếp, con đầu thường là gái.
Can ngày can giờ sinh lẫn nhau, con đầu thường là gái.

Quang Đạo: Chủ nhiệm Câu lạc bộ Dịch học Lý số Nghệ An
ĐT: 0983225079
Mail: lequang306@gmail.com
Nhận xem số Tử vi, xem Quẻ dịch, xem ngày và tư vấn Phong thuỷ.

Phụ tử tình thâm - Thập ân phụ mẫu



Phụ tử tình thâm
Dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh
Người đóng góp: Thu Hương

À… À… ời.... à..à ơi....
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ, kính cha
Lo tròn chữ hiếu mới là đạo ơ… ơ con

Phụ tử tình thâm
Công thầy, rồi nghĩa mẹ
Đừng tiếng tăm, nặng nhẹ
Đừng tiếng tăm, nặng lời
Đừng cả tiếng, dài hơi
Nói mẹ cha sao nên
Cãi mẹ thầy sao phải
Ơ...Ơ Đêm nằm nghĩ lại
Nhớ đến cội thung huyên
Công cù lao ai đền
Nghĩa sinh thành ngày trước
Khi lưng cơm, rồi bát nước
Ước phụ tử tình thâm
Thầy đói rách nợ nần
Mẹ cũng đói rách nợ nần
Cũng vì con thơ ấu
Dừ phụ tại trắc mậu
Rồi trắc tại vô thân
Con ở có thủy có chung
Đứa phụ từ tự hiếu
Mà đứa phụ từ tử hiếu
Dăm ba cành đào liễu
Sáu bảy quả nam nhi
Thầy chưa được nhờ chi
Mẹ cũng chưa được nhờ chi
Đền công ơn cho đáng
Công mẹ thầy cho đáng
Rồi mười ngày chín tháng
Mẹ cúc dục nên thai
Con nên một nên hai
Thầy ấp iu bồng bế
Mẹ ấp iu bồng bế
Con nên ba, nên bốn
Con tríu mẹ chưa rời
Đứa sáu, bảy ăn chơi
Con chín, mười khôn nầy
Mà đứa chín, mười khôn nậy
Ơ...Ơ
Dừ thầy chưa được cậy
Mẹ cũng chưa được nhờ
Dừ mẹ đang phải lo
Đứa manh khăn, tấm áo
Đứa mảnh quần, tấm yếm
Con mười lăm, mười bảy
Con ăn học dùi mài
Đứa mười chín, đôi mươi
Lo thất gia dựng hộ
Mà lo cửa nhà dựng hộ
Khi hoa cười, ngọc nở
Chốn đào liều sum vầy
Thầy mơ ước đêm ngày
Ước dâu hiền, thầy ước rể hiền
Ước dâu hiền, mẹ ước rể thảo
Ơ.. Ơ...
Thánh hiền là đạo
Rồi khuất bóng từ bi
Con có lỗi điều chi
Xin mẹ thầy xá quá
Con đừng ở cậy thượng, rồi áp hạ
Ở giát dạ khinh thường
Con đừng đứa ghét, đứa thương
Cũng nhất giai chi tử
Mà cũng gia bằng chi tử
Dừ trong sách có chữ
Con mới phải trông vào
Thầy một tuổi một cao
Mẹ một tuổi một già
Con đừng bấc chì mà nặng nhẹ
Chớ có bấc chì mà nặng nhẹ
Con ở gần thầy, mẹ
Phải xây đắp, vun trồng
Khi vợ dại thì có chồng
Phải vào ra thăm viếng
Phải đi về thăm viếng
Khi đồng quà, trữ bánh
Khi bún sốt, lòng tươi
Ta nâng giấc cho người
Kẻo mai rồi tạ thế
Mai sau rồi tạ thế
Ơ...Ơ…
Rồi một mai bách tuế
Ra cây úa, lá vàng
Lá rụng cội đại ngàn
Con tìm mô được nữa
Mà con muốn tìm mô được nữa
Khi cúng hương, cúng lửa
Khi vào bái, ra quỳ
Dừ đặt mâm lên thì
Nỏ thấy thầy, mẹ ăn chi
Chỉ thấy ruồi với ruồi
Chỉ thấy ruồi với kiến
Chiêm bao tưởng đến
Dù than vắn, thở dài
Thầy không đoái, không hoài
Mẹ cũng nỏ đoái, nỏ hoài
Thật là phụ từ tự hiếu…
Ai ơi...
Làm con cho trọn đạo
Nhắc người ghi lòng cho trọn đạo
À À ơi... À À ơi i i i ơi!

Mẫu tử tình thâm (Chế). Mẫu tử tình thâm chứ công thầy mà nghĩa mẹ,chớ tiếng tăm nặng lời nhân rộng tiếng cả hơi chớ cuộc đời cha sao nên bởi vì cha nhiều bạn ơ ơ ơ…một năm có 365 ngày biết bao nhiêu ngày là lễ trọng.chẳng han cái ngày thành lập đoàn 26 tháng 3 cha la cán bộ hoạt đọng phong trào nâng ly lên là phải hô hào uống cho đẹp đôi đố ngộ.ơ ơ ơ…Uống xong rồi thì cha ngủ mẹ đặt chậu nằm bên con dật chậu nằm bên cha vẫn nằm im lịm mẹ nhìn cha ứa lệ ơ ơ ơ .. một tháng có bao nhiêu ngày như thế ma có một chú mới xây nhà mời cha đên uống khánh thành tân gia cha xách dép ra đi mẹ chạy theo níu lại í í í í…Con ơi chú cha con là người hay ăn hay nhậu nồi lảu mới rinh ra cha mới gọi điện thoại vè nhà mẹ ăn trước đi nha con ăn trước đi nha chơ cơ quan cha đang bận họp í í í…. Cả tuần ni cha chưa có hột cơm mô vô trong bụng mà sáng thì bát cháo bồ câu trưa lồng lợn tiết canh chiều thịt chó í í í.. Cha con mới uống riệu xong thì đi bước ngắn bước cao nghe điện thoại réo oang oang cha lại xách dép ra đi mẹ nhìn theo mà ngao ngán í í í … nhà ta nghèo mưa gió mà dột dưới dột lên mà dột trên mà dột xuống mẹ dùn cha xích vô con đùn cha xich vô nơi mô khô thì mẹ nằm nơi mô ướt thì cha nằm cha dang say riệu biết chi mô ướt với khô nằm mô mà nỏ được í iiiii….Mới đó đã trăm ngày thịt ga nấu với kiệu cơm nếp với độ xeng thịt mở với dưa hành chơ mời anh về hưởng thụ.í í í í .sinh thời anh bạo nhởi đến con cái một bày đến con cái một bày dừ anh chết mất thây biết láy ai mà nhờ cậy.í í í í .. đêm năm canh thức dậy thấy dường chiếu vắng tanh trước nhớ anh vô cung sau thì nớ nờ vo kể í ì í ì…

Lời bài hát: Thập Ân Phụ Mẫu (Phương Thảo trình bày)
Trưa hè bên chiếc võng đưa Mẹ ru con ngủ giữa trưa bóng tròn Đức mẹ nặng nề là con nhớ Công cha là công cha đức mẹ có nặng nề Con chưa chưa lấy được chút gì báo ân Nào ai có cha rồi thì ai có mẹ thì hơn Ai ơi, có cha rồi thì ai có mẹ nuôi con Thì ơn ấy không cha rồi thì chẳng mẹ Con càng khổ thay con nhớ tình thâm Là con ơi ngày ấy con trọng thay Nhớ tình thâm ơi ngày ấy con trọng thay Ơi công cha rồi thì nghĩa mẹ đến tày bằng non Con ở làm sao là con ơi cho phải đạo làm con Lắng nghe thì con ơi chứ mẹ kể ngọn nguồn khúc nôi Mẹ kể thâm ân kể từ trong lòng mẹ có thai Ơi có âm dương rồi có thiên đình nào Ai biết gì mẹ kể từ khi là con ơi bú mớm nâng niu Con trai rồi thì con gái công lao nhọc nhằn Chăm lo đêm ngày sao cho con ngủ con ăn .

 Một lòng đợi bạn

 I. Người ơi ...ơ..., chứ một lời thề không duyên thì nợ, mà hai lời thề không vợ thì (ơ) chồng, mà ba lời thề khơi núi ngăn sông, em nhớ theo anh cho trọn ơ ... đạo, kẻo luống công anh đợi ...ơ... chờ.

Anh ra đi đá mềm chân cứng, em ở nhà hãy vững như đồng, dù gió bấc mưa đông em xe tròn chiếu lại, con thuyền đạo ngại vững tay lái đồng tâm, cho tình nghĩa ngàn năm ... trọn lời ước nguyện.

Ta thương nhau bằng trời bằng biển, anh xa em như bến xa thuyền, dù bá ngả tùng nghiêng anh một lòng đợi bạn, tình sâu nghĩa nặng dù đá nát vàng phai, lời thề chẳng đơn sai ... một lòng giữ vẹn.

II.Anh ra đi đá mềm chân cứng, em ở nhà hãy vững như đồng, dù gió bấc mưa đông em xe tròn chiếu lại, con thuyền đạo ngại vững tay lái đồng tâm, cho tình nghĩa ngàn năm ... trọn lời ước nguyện.

Ta thương nhau bằng trời bằng biển, anh xa em như bến xa thuyền, dù bá ngả tùng nghiêng anh một lòng đợi bạn, tình sâu nghĩa nặng dù đá nát vàng phai, lời thề chẳng đơn sai ... một lòng giữ vẹn.

Năm canh em thức (ơ) trọn để gan héo ruột khô, đêm em đứng em chờ như mong tằm nhả kén, bao nỗi niềm anh chờ mong. Hỡi người ơi ... đã thương nhau dù cho chớp bể mưa nguồn, lòng anh giữ vẹn lời nguyền, tình anh ... giữ vẹn ...thủy chung.

Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2013

Những bài ca đi cùng năm tháng - Quê mình xứ Nghệ



Lời bài hát "Có ai vô xứ Nghệ"

Thơ: Huy Cận
Sáng tác: Phạm Tuyên.
Trình bày: Thanh Huyền - Tốp nữ Ca Múa ND TƯ
******************************************** 

Ai đi vô nơi đây, xin dừng chân xứ Nghệ.
Ai đi ra nơi đây, xin chân dừng xứ Nghệ.
Nghe câu hò ví dặm càng lắng lại càng sâu.
Như  sông Lam chảy chậm, đọng bao thủơ vui sầu.

Ai ơi cà xứ  Nghệ, càng mặn lại càng giòn.
Nước chè xanh xứ Nghệ, càng chát lại càng ngon.
Tình xứ  Nghệ không mau, nhưng bén rồi mà sâu lắng.
Quen xứ  Nghệ quen lâu, nhưng tình sâu nghĩa nặng.

Khoai lang vàng xứ  Nghệ, càng nhai kĩ càng bùi.
Cam xã Đoài xứ Nghệ, càng chín lại càng tươi.
Đất này đất Xô Viết, Đảng mở hội cờ hồng
Tự  tuổi vàng đã biết, mặn mãi tình công nông

Ôi tâm hồn xứ Nghệ, trong hồn Việt Nam ta.
Có gì tự ông cha, rất xưa mà rất trẻ.
Giống như Bác của ta, một  người con xứ Nghệ.
Giống như Bác của ta, một con người xứ Nghệ…!



TIẾNG HÁT SÔNG LAM

Sáng tác: Đinh Quang Hợp
Trình bày: Tường Vi

Ơơ... hò… Ai biết nước sông Lam răng là trong là đục
Thì biết sống cuộc đời răng là nhục là ơ vinh
Thuyền em lên thác ờ... xuống ớ... ghềnh
Nước non là nghĩa là tình ai ơi

Hò ơi dô khoan, như­ sóng trào dâng
Nghệ An đứng dậy trong bom rơi lửa đạn
Đốt cháy quân thù giữ lấy biển trời, trăng đẹp quê ta
Ơi thiết tha vô vàn tiếng hát chiều nay
Đất anh hùng muôn đời bất khuất
Thành Vinh, Hư­ng Dũng, Quỳnh Trang
Người chiến sĩ dân quân, cây súng trường đã chiến thắng
Bọn cướp Mỹ xâm lăng chôn vùi ở đất đây

Dòng ới sông Lam, vang tiếng đò đư­a, nhịp vui mái chèo
Anh công nhân Bến Thủy chắc cánh tay đư­a
Những chuyến phà sang dào dạt đêm nay
Ơi, Gió lên trăng về trên đất phù sa, đã mấy mùa tay cầy tay súng
Hỏi rằng o gái làng Đông mà hợp tác Ba Tơ nay mùa về lúa tốt
Lại tay súng dân quân đã lập nhiều chiến công

Rằng có ai hay gió cuốn buồm căng, Hòn Ngư­ cá nhảy
Anh thanh niên Nghi Hải, tung lưới quăng chài
Bám biển chiều nay cá về đầy khoang
Ơi núi sông ruộng đồng Xô Viết Nghệ An
Mỗi tay cầy là một chiến sĩ, đào sông khai phá rừng hoang
Trồng thêm nhánh khoai xanh, gieo thêm hạt này lúa giống
Để chống Mỹ ai ơi giữ lời thề sắt son hò ơi... ới.... hò ơ
Có hay chăng (hầy) Xô Viết Nghệ An quê ta à ơi... hò ơ...


TIẾNG HÒ TRÊN ĐẤT NGHỆ AN

Sáng tác: Tân Huyền.
Trình bày: Thu Hiền.
(Ảnh: Phong cảnh núi Hồng - sông Lam Nghệ An).

1- Tiếng ai hò trên quê ta đó (ớ ơ ớ ơ) nhặt khoan
Ấy tiếng dân quân luyện tập giữ làng, giữ trời xô-viết Nghệ An.
Ơi dòng nước sông Lam chảy từ trên ngàn
Qua những Anh Sơn, Thanh Chương, Nam Đàn
Còn nghe, còn nghe tiếng hò ngày xưa vọng vang.
Ơ... (chứ) nước sông Lam biết khi mô cho cạn
Cũng như tinh thần cách mạng của dân ta
Dù cho bão nổi mưa sa, (chứ) Nghệ An xô-viết vẫn là Nghệ An.
Tiếng ai hò trên quê ta đó (ớ ơ ớ ơ) nghe sao nhặt khoan
Ấy tiếng quân ta công sự sẵn sàng câu hò rung lá nguỵ trang.
Ơi mảnh đất quê hương nặng tình vô vàn
Tiếng trống năm xưa xô-viết dậy làng
Giờ đây, giờ đây như giục lòng dân Nghệ An.

2- Tiếng ai hò trên quê ta đó (ớ ơ ớ ơ) mà hay
Ấy tiếng nông dân tay súng tay cày được mùa ngô lúa nặng tay.
Ơi dòng nước sông Lam chảy từ trên ngàn
Qua những quê ta ươm tơ chăn tằm
Còn nghe, còn nghe tiếng hò về khuya gọi trăng.
Ơi (chứ) nước sông Lam biết khi mô cho cạn
Cũng như tinh thần lao động của dân ta
Dù cho gian khổ băng qua (chứ) Nghệ An xô-viết vẫn là Nghệ An.
Tiếng ai hò trên quê ta đó (ớ ơ ớ ơ) nghe sao nhặt khoan
Ấy tiếng công nhân Bến Thuỷ, núi Thành trên đường gươm súng hành quân.
Ơi giặc Mỹ hung hăng đừng hòng cắn càn
Xô-viết quê ta tất cả sẵn sàng diệt Mỹ
Cùng nhau xới trồng vườn hoa Nghệ An.

3- Tiếng ai hò bên kia vang tới (ớ ơ ớ ơ) Nghệ An
Ấy tiếng quê hương kết nghĩa thắng càn, câu hò Quảng Ngãi rộn vang.
Ơi mảnh đất thân yêu còn nhiều gian khổ
Như nhắc quê ta nung chí căm thù
Dặn nhau, dặn nhau hãy vì miền Nam vượt lên.
Ơi (chứ) nước sông Lam biết khi mô cho cạn
Cũng như tinh thần cách mạng của dân ta
Dù cho bão nổi mưa sa (chứ) Nghệ An xô-viết vẫn là Nghệ An .
Tiếng ai hò trên quê ta đó (ớ ơ ớ ơ) nghe sao nhặt khoan
Ấy tiếng quân dân quê của Bác Hồ gửi lời ra tới thủ đô
Thưa cùng Bác thân yêu và cùng với Đảng
Xô-viết quê ta tất cả sẵn sàng diệt Mỹ
Cùng nhau xới trồng vườn hoa Nghệ An.

 

Cô Dân Quân Làng Đỏ 

Sáng tác Nguyên Nhung

Em hát giọng đò đưa, mênh mông đất trời xứ Nghệ, nghe sông Lam nước lấp lánh vỗ về. Từ chiến hào tay súng em dương lê đến đường cày lúa hàng hàng thẳng tắp, em trải đẹp đời lên từng mãnh đất. Nghĩa chiến trường và hậu tuyến hai vai hẹn người đi chiến đấu hôm mai đã có em đứng giữ đất này. Ơi cô gái sông Lam ta đó, nơi xưa quê em làng Đỏ, căm thù như biển lửa đã đứng lên.
Em đi tiếp đạn lên núi, em xông pha giữa chiến hào và tiếng súng em gầm vang trong lửa khói vạch từng đường, đạn sáng rực trời cao. Ngày theo vết đường cày, đêm về xây đường đắp ụ, nắng dù sém má em, mưa gió dãi dầu lòng vẫn vui như pháo hoa đỏ rọi, đánh thắng quân thù trên mãnh đất quê hương. Hỡi cô gái thân thương dũng cảm ngoan cường.

Vinh-thành phố bình minh

Sáng tác Lê Hàm

Em đón anh về Thành Vinh quê em. Nghe gió biển ru dòng Lam êm đềm. Người người thân quen sống vui trong tình thương, đây những công trường thành phố bình minh,
câu hát ân tình người em gái quê mình.
Đây thành vinh qua bao giông lửa vinh vẫn kiên trung, cửa ngõ miền trung đẹp thêm thành phố đỏ, kìa những con đò gióng giả ngược xuôi, cầu ta nối nhịp đôi bờ dòng Lam.
Anh đã đi về thành vinh quê em nghe sóng nhạc êm thành Vinh lên đèn, lửa hàn đêm đêm sáng lên trên tầng cao soi bóng sông đào lơ lửng nước lượn quanh, qua những căn nhà đẹp tươi bóng cây xanh.
Ôi đẹp sao, trăng treo trên đỉnh núi Quyết trăng trong, giọng nói miền trung ngời ân tình xứ sở, tiếng hát câu hò văng vẳng trời xanh thành Vinh sáng ngời nắng tỏa bình minh. Thành Vinh sáng ngời nắng tỏa bình minh.

Khúc Hát Sông Quê

Sáng tác: Nguyễn Trọng Tạo; Phỏng thơ Lê Huy Mậu

Qua nửa đời phiêu dạt, con lại về úp mặt vào sông quê
Ơi! Con sông dạt dào như lòng mẹ. Chở che con đi qua chớp bể mưa nguồn
Từng hạt phù sa của tháng ba, rồi tháng bảy
Từng vị heo may trên má em hồng

Ơi! Con sông quê, con sông quê.
Ơi! Con sông quê, con sông quê
Sông còn nhớ chăng nơi ta ngồi ngóng mẹ
Vời vợi tuổi thơ một xu bánh đa vừng

Ơi! Con sông quê, con sông quê.
Ơi! con sông quê, con sông quê
Con cá dưới sông, cây trồng trên bãi.
Lúa gặt rồi còn để lại rơm thơm
Cùng một bến sông con trâu đằm, sóng dưới
Bầy trẻ thơ tắm mát phía thượng nguồn
Một dòng xanh trong chảy mãi tới vô cùng
Một dòng xanh trong chảy mãi tới vô cùng


Thanh Chương mời bạn về thăm
Sáng tác: Phan Thanh Chương

Chớ ngái ngôi chi mà anh nỏ về
Hay là vì quê em nghèo đói
Hay anh chê em vụng về câu nói
Đất Thanh Chương nhút mặn chua cà
Chắc có lẽ rứa mà anh chê
Chắc có lẽ rứa mà anh nỏ về

Dù cách xa bấy lâu em vẫn chờ
Như sông giăng bốn mùa con nước
Nhớ thương nhau bao giờ mà nguôi được
Yêu quê mình chung sức dựng xây
Những nhà máy,những công trình
Mọc lên trên khắp quê nhà
Người ơi
Nhớ về
Về Thanh Chương thăm đình Võ Liệt
Trống 30 rợp cờ Xô Viết
Tự hào biết mấy
Những tên làng tên núi tên sông
Đất ngàn năm tâm gương soi làm ăn mới
Đã mở những chân trời
 

Xóm thôn ta ngày nay được mùa
Nhớ cuộc đời khi xưa nghèo đói
Anh ra đi vẫn nghĩ hoài câu nói
Đất thanh chương nhút mặn chua cà
Đất có nghĩ với người đi xa
Đất nặng nghĩa tình quê nhà
Đồng thâm canh bấy lâu nay được mùa
Câu ca xưa chỉ còn trong kí ức
Đất Thanh La đêm về tràn ánh điện
Những công trình náo nức dựng xây
Bao trai gái quyết tâm lên đường,viết lên trang sử anh hùng
Người ơi
Nhớ về
Mùa trăng lên câu đò đưa dìu dặt
Tiếng quê hương mặn mà yêu thương
Người đi xa nhớ về quê mẹ Thanh Chương
Đất ngàn năm tâm gương soi
Được no ấm,đã mở những chân trời
Quê hương em
Có đôi lời
mời bạn về thăm!
*TB: Trong quyển Nghệ An kí Đốc học Bùi Dương Lịch có ghi rằng:
“Thanh Chương phong tục địa phương khoáng đạt, cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp; kẻ sĩ chăm chỉ đèn sách, trau dồi lễ nghĩa; dân làm nghề nông thì đàn ông chăm lo mùa vụ, đàn bà thì giữ gìn chính chuyên, hiền thục. Mọi người đều rất coi trọng lễ làng, phép nước, chuộng sự cần kiệm và đều coi trọng việc báo đáp công ơn đối với nhà vua cũng như cha mẹ là niềm vui”.
Là một địa danh cũ nổi tiếng, Thanh Chương đã có một truyền thống văn hóa lâu đời, đào tạo nhiều danh nhân cho tổ quốc, như danh thần Nguễn Cảnh Chân, danh tướng Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Thai Mai, Tôn Quang Phiệt….
Đã có một số ca khúc nổi tiếng về Thanh Chương: “Thanh Chương mời bạn về thăm” Sáng tác: Phan Thanh Chương; “Nhớ lắm quê mình ơi” Sáng tác: Hồ Hữu Thới; “Trở lại Thanh Chương” Sáng tác: Trần Hoàn; “Thanh Chương mến thương” Sáng tác: An Thuyên; “Lời ru tháng Chín” Sáng tác: Tân Huyền…
“Thanh Chương mời bạn về thăm” được viết với làn điệu dân ca Nghệ tĩnh, một âm sắc truyền thống phong phú, kếp hợp âm sắc quan họ Bắc Ninh với âm hưởng đặc biệt của giọng nói miền Nghệ An, Hà Tĩnh. Điều này tạo cho bản nhạc sắc thái chân chất “nông dân” cùng với các nét quý phái thanh nhã của quan họ, rất… Thanh Chương. Có lẽ đó là lý do vì sao bản nhạc trở thành nổi tiếng.



Bèo dạt mây trôi.
(Dân ca quan họ Bắc Ninh)

Bèo dạt mây trôi chốn xa xôi
Anh ơi em vẫn đợi… bèo dạt.
Mây í ì trôi chim sa tang tính tình, cá lội
Ngẫm một tin trông, hai tin đợi, ba bốn tin chờ
Sao chẳng thấy đâu ?
Một mảnh trăng treo suốt canh thâu,
Anh ơi trăng đã ngả ngang đầu.
Thương nhớ… ai sương rơi đêm sắp tàn, trăng mờ.
Cành tre đưa trước gió, là gió la đà
Em vẫn mong chờ, sao chẳng thấy anh
Bèo dạt mây trôi, chốn xa xôi
Anh ơi, em vẫn đợi… bèo dạt
Mây í ì trôi chim sa tang tính tình cá lội
Ngẫm một tin trông, hai tin đợi, ba, bốn tin chờ
Sao chẳng thấy đâu ?
Ngày ngày ra trông chốn xa xăm
Anh ơi em vẫn đợi mỏi mòn.
Ra… trông sao sa tang tính tình hoa tàn,
Người đi xa có nhớ,
Là nhớ ai ngồi trông cánh chim trời,
Sao chẳng, sao chẳng thấy anh ?

Lời bài hát Việt Nam quê hương tôi

Bạn ơi hãy đến quê hương chúng tôi
Ngắm mặt biển xanh xa tít chân trời
Nghe sóng vỗ dạt dào biển cả
Vút phi lao gió thổi trên bờ
Buồm vươn cánh vượt sóng ra ngoài khơi
Trong nắng hồng bừng lên sáng ngời.

Miền Nam đất nước quê hương chúng tôi
Có rừng dừa xanh xa tít chân trời
Người thiếu nữ dạt dào tình trẻ
Dáng xinh tươi đang tuổi yêu đời
Lòng trai tráng rộng lớn như biển khơi
Với cánh tay dựng nên đất trời.

Mùa xuân đã đến quê hương chúng tôi
Mía ngọt chè xanh bông trắng lưng đồi
Đồng xanh lúa rập rờn biển cả
Tiếng ai ru con ngủ ru hời
Đồng xanh lúa thẳng cánh bay cò bay
Đưa nước về đồng quê sáng ngời.

Việt Nam yêu dấu xanh xanh luỹ tre
Suối đổ về sông qua những nương chè
Dòng sông cuốn dồn về biển cả
Lứa thanh niên vui thoả cuộc đời
Mùa xuân tới nguồn sống đang sục sôi
Đất nước tôi Việt Nam sáng ngời!


Chiếc Áo Bà Ba


Chiếc áo bà ba trên giòng sông thăm thẳm
Thấp thoáng con xuồng bé nhỏ lướt mong manh
Nón lá đội nghiêng tóc dài con nước đổ
Hậu Giang ơi em vẫn đẹp ngàn đời

Nhớ chiếc xuồng xưa năm nào trên bến cũ
Thương lắm câu hò kêu gọi khách sang sông
Áo trắng xuồng đưa mắt cười em khẽ gọi
Người thương ơi em vẫn đợi chờ.

ĐK:
Đẹp quá quê hương hôm nay đẹp vô ngần
Về Sóc Trăng một ngày ca điệu lâm thôn
Đàn én chao nghiêng xôn xao mùa lúa nhiều
Về bến Ninh Kiều thấy nàng đợi người yêu

Em xinh tươi trong chiếc áo bà ba
Em đi mau kẻo trễ chuyến phà đêm
Qua bến Bắc Cần Thơ

Nhớ kỷ niệm xưa nông xuồng đêm trăng tỏ
Em gái Ninh Kiều tóc dài chấm lưng thon
Đất nước mình đây dẫu xuồng ghe bé nhỏ
Mà không thôi nhớ thương nên đầy vơi.

Hậu Giang ơi nước xuôi xuôi một dòng. 

Dẫu qua đây một lần
Nói sao cho vừa lòng
Nói sao cho vừa thương.



Lời bài hát: Nỗi Buồn Hoa Phượng
(Sáng tác: Thanh Sơn - năm 1963)

Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn,
Chín mươi ngày qua chứa chan tình thương
Ngày mai xa cách hai đứa hai nơi,
Phút gần gủi nhau mất rồi,
Tạ từ là hết người ơi!

Tiếng ve nức nở buồn hơn tiếng lòng,
biết ai còn nhớ đến ân tình xưa
Đường xưa in bóng hai đứa nay đâu,
những chiều hẹn nhau hết rồi,
giờ như nước trôi qua cầu.

Giã biệt bạn lòng ơi! Thôi nay xa cách rồi
Kỷ niệm mình xin nhớ mãi,
buồn riêng một mình ai
chờ mong từng đêm gối chiếc
Mối u hoài này ai có haỵ

Nếu ai đã từng nhặt hoa thấy buồn,
Cảm thông được nỗi vắng xa người thương.
Màu hoa phượng thắm như máu con tim,
mỗi lần hè thêm kỷ niệm
Người xưa biết đâu mà tìm



Gợi Nhớ Quê Hương

(Sáng tác:Thanh Sơn)

Quê em hai mùa mưa nắng,

Hai thôn nghèo nối liền bờ đê,

Từng lũy tre xanh nghiêng nghiêng chiều hè,

Như bức tranh gợi tình quê đậm đà.

Lời ru con tiếng võng đong đưa.

Ai chờ ai thương giòng nước u buồn.


Trăm năm nuôi tình khôn lớn

Quê hương là sữa mẹ đợi con.

Ruộng lúa nương dâu chân quen đường mòn,

Ôi khói lam chiều tình quê dạt dào,

À à ơi câu hò ca dao, như lời mẹ ru từ lúc ban đầu.


Ơi hò ơi ví dầu thương những con đò bên hàng dừa xanh,

Thương nhiều chiếc áo bà ba,

Vai nặng gánh lúa lúc tan chợ chiều,

Bên mái tranh nghèo nghe bìm bịp kêo nước lớn nước ròng...


Sương đêm trăng rằm soi lúa

Âm thanh dầm giã gạo chày trôi,

Đẹp lắm quê hương thôn trăng tuyệt vời

Câu hát thay lời tình yêu ngọt bùi.

Dù xa xôi nhớ ngày trong nôi,

nghe tình quê hương gọi mãi trong đời.

Câu hò bên bờ Hiền Lương (Hoàn Hiệp)
Bên ven bờ Hiền Lương chiều nay ra đứng trong về
Mắt đượm tình quê đôi mắt đượm tình quê
Xa xa đoàn thuyền nam buồm căng theo gió xuôi dòng
Bỗng trong sương mờ không gian trầm lặng nghe cầu hò
Hò ơi, ơi thuyền ơi, thuyền ơi có nhớ bến trăng
Bến thường một dạ khắng khăng đợi thuyền
Nhắn ai xin giữ câu nguyền trong cơn bão tố
Vẫn bền lòng son
Ơi câu hò chiều nay sao nghe nặng tình ai
Hay là anh bên ấy trong phút giây nhớ nhung trào sôi
Gởi niềm tin theo gió qua mấy câu thiết tha hò ơi
Hò ơi, ơi dù cho dù cho bến cắt sông ngăn
Dễ gì chặn được duyên em với chàng
Se mây cho sáng trăng vàng
Khái sông nỗi bến cho nàng về anh
Ơi câu hò chiều nay tôi mang nặng tình ai
Nơi miền quê xa vắng anh có nghe thấu chăng lòng em
Tình này ta xây đắm nên thủy chung không bao giờ phai.

Mùa Chim Én Bay

Nghệ sỹ: Anh Thơ - Sáng tác: Hoàng Hiệp
Khi gió đồng ngát hương rợp trời chim én lượn
Cây nẩy mầm chồi xanh, mây trắng bay yên lành
Em chợt đến bên anh dịu dàng như cơn gió nhẹ
Và lòng anh để ngỏ cho tình em mơn man
Em là cách én mỏng chao xuống giữa đời anh
Cho lòng anh xao động thành mùa xuân ngọt ngào
Em về én lại xa mùa xuân không ở lại
Bên em anh gần mãi nên đời vẫn ớ ơ ... đời vẫn xuân trào
hm ... hm ... hm ... hm ...

  Tình ca (Hoàng Việt)

Khi cất lên tiếng ca gửi về người yêu phương xa
Ta át tiếng gió mưa thét gào cuộn dâng phong ba
Em ơi nghe chăng lời trái tim vọng ra
Rung trong không gian mặt biển sôi ầm vang.
Qua núi biếc chập chùng xa xa
Qua áng mây che mờ quê ta
Tiếng ca đời đời chung thủy thiết tha
Em có nghe tiếng ca chứa đựng hận thù sâu xa.
Đã biến tình đôi ta thành những cánh sao toả sáng
Vượt băng băng qua đêm tối tìm hương hoa
Bến nước Cửu Long còn đó em ơi!
Bãi lúa nương dâu còn mãi muôn đời
Là còn duyên tình ta thắm trong tiếng ca không thể xóa nhòa.
Khi đã nghe tiếng ca của lòng người yêu quê ta
Em hãy ngước mắt lên ngắm nhìn trời xanh quê ta
Chim giăng giăng bay ngoài nắng xuân đẹp thay
Tan cơn phong ba lòng đất yên rồi đây
Em hãy nở nụ cười tươi xinh
Như đóa hoa xuân chào riêng anh
Nói nhau ngàn lời qua đôi mắt xanh
Ta hát chung tiếng ca vang động từ ngàn phương xa
Xua kẻ thù đi mau, dập tắt chiến tranh đẫm máu
Đập tan ngay bao đau khổ và chia ly
Giữ lấy đức tin bền vững em ơi
Giữ lấy trái tim đòi sống muôn đời
Là một bài tình ca của đôi lứa ta dâng cả bao người.

Biển hát chiều nay

 Sáng tác: Hồng Đăng

Đóng góp: Phạm Duy Quang Huy 

Chân trời rất xanh gọi nắng xôn xao!
Con thuyền rất vui và gió hát ngọt ngào.
Môi cười rất xinh lung linh màu áo,
mây trắng gợn lên những cánh chim hải âu.

Có gì sáng nay mà sóng xôn xao!
Chân trời vẫn xanh màu nắng vẫn ngọt ngào.
Môi cười rất xinh lung linh màu áo,
câu hát gợi lên những khát khao đại dương.

Ơi biển Việt Nam! Ơi sóng Việt Nam!
Qua bao nhiêu thăng trầm mà chiều nay vẫn dịu dàng
Vùi sâu dưới đáy những gì đau thương,
biển lại hát tình ca biển kể chuyện quê hương.

Mỗi một tình yêu, mỗi một cuộc đời,
qua bao nhiêu thăng trầm lửa thử vàng mới nên người.
Biển xanh vẫn nhắc những lời yêu thương,
biển lại hát tình ca biển kể chuyện quê hương. 

Xa Khơi
Sáng tác: Nguyễn Tài Tuệ
Trình bày: Tân Nhân

Nắng toả chiều nay
Chiều toả nắng đôi bờ anh ơi
Gió lộng buồm mây ướm chân trời
Biển lặng sóng thuyền em dong khơi
Khoan giọng hò thương anh cách vời

Kìa biển rộng con nục con măng
Lướt sóng liền đôi bờ tung tăng
Con chuồn còn bay nơi nơi
Con giang chiều gọi bạn đường khơi

Nắng toả chiều nay
Thuyền về mái đọng chiều nay
Nhìn phương Nam con nước vơi đầy
Thương nhớ, nhớ thương anh ơi !

Ơi mênh mông sóng xô ru thuyền ta xa bờ
Âm vang tiếng hò nhịp chèo ta mong chờ
Đường ta ra khơi đưa nhịp chèo nối liền
(Ơ) Đường đi muôn khơi mái chèo chung đôi miền

Ơ...mênh mông lời ca câu hò thương nhớ
Vang về miền Nam quê ta
Biển dập dìu biển tâm tình
Biển nói lên lời sóng cả ta chung lứa đôi

Ơi phong ba lướt xô mái chèo ta nối liền
Phong ba sóng cồn lòng ta luôn vững bền
Kề vai bên nhau nắng biển cùng mưa nguồn
(Ơ) Kề vai bên nhau em kề bên anh thương

Ơ...anh ơi lời ca câu hò thương nhớ
Vang về cùng anh không xa
Biển dập dìu, biển chung tình
Biển nói lên giùm bao ngày thương nhớ, biển ơi !

Nhớ thương cách vời ơi biển chiều nay
Nhớ thương cách vời ơi biển chiều nay. 

Nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ (sinh năm 1936 tại Thanh Chương, Nghệ An) chủ yếu soạn nhạc không lời và nhạc giao hưởng. Ông viết không nhiều ca khúc, và cũng có ít ca khúc được nhiều người biết như "Xa khơi", "Tiếng hát giữa rừng Pắc Bó", "Mùa xuân gọi bạn" (Lời ca gửi Noọng)... "Xa khơi" có thể coi là một sáng tác để đời của ông.
 "Xa khơi" viết vào giai đoạn sau khi kết thúc Kháng chiến chống Pháp, đất nước bị chia làm hai miền. Ca khúc được bắt đầu được hình thành từ năm 1956-1957, lúc nhạc sĩ đi thực tế tại miền Trung:

Những năm 1956 - 1957, Nguyễn Tài Tuệ đã đi thực tế ở khu vực cầu Hiền Lương, Cửa Tùng và đảo Cồn Cỏ... Nhà thơ Lưu Trọng Lư dẫn đầu đoàn văn nghệ sĩ, họ sống ở bên này sông Bến Hải hàng tháng trời.

Lúc đó, khó khăn chồng chất khó khăn, đất nước bị chia cắt gây đôi miền. Cảnh chiều chiều vợ ra bến ngóng chồng, ông ra sông ngóng cháu từ phía bên kia. Những đôi trai gái chưa kịp cưới nhau đã phải chia lìa để cứ chiều chiều đứng bên này khoát nón sang bên kia gọi nhau mà không thể gần nhau được.

Nguyễn Tài Tuệ tự hỏi mình: “Ngoài biển kia con cá nục đến con cá măng còn đi đi lại lại, bay nhảy thoải mái giữa 2 miền, tại sao con người lại bị ngăn cách? Và, ông lấy khát vọng thống nhất đất nước làm chủ đề bài hát này”.

Đến năm 1962, khi có cuộc thi sáng tác hưởng ứng tiếng trống Đồng khởi miền Nam, nhạc sĩ mới viết ca khúc này. Khi tham dự cuộc thi, ca khúc lại bị đánh giá là thiếu tính tư tưởng, thiếu tính sản xuất, nhạc sĩ cũng bị kiểm điểm, chỉ trích. Nhưng khi phát trên sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam với giọng hát Tân Nhân, ca khúc lại được thính giả rất yêu thích. Kết cục, bài hát đoạt giải nhì, không có giải nhất.

Nhưng do lí do trên, đến sau năm 1975 Xa khơi mới được phổ biến rộng rãi.

Ca khúc được viết cho giọng nữ cao, mang chất dân ca Trung Bộ, do đó chỉ được các nữ ca sĩ thể hiện. Đây được coi là ca khúc kinh điển của thanh nhạc, nên nhiều ca sĩ đã thể hiện ca khúc này. Ca khúc còn xuất hiện nhiều lần trong các cuộc thi Sao Mai, Tiếng hát truyền hình các tỉnh và các cuộc thi âm nhạc khác. Những nghệ sĩ nổi tiếng đã từng thể hiện ca khúc này như : Tân Nhân, Thanh Huyền, Hương Loan, Tường Vi, Lê Dung, Thu Hiền, Anh Thơ, Tân Nhàn...

Tân Nhân (1932 - 2008) là nghệ sĩ ưu tú, nổi tiếng vào thập niên 1950-1960. Bà được nhiều người coi là ca sĩ đã thể hiện "Xa khơi" thành công nhất. Bản thu "Xa khơi" dưới sự thể hiện của bà (đệm piano Hoàng My) là bản thu được phổ biến rộng rãi trên sóng phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam.


HOA ĐẸP CHĂM-PA
(Dân ca Lào).

 
* Phiên âm tiếng Lào:
1–
Ô đuông chăm-pa, vê la xôm noọng, nức hên phăn xoong
Moong hển hủa chay hau nức khựn đạy nay kìn chậu hoom
Hển suổn đoọc mạy bi đa pục vay tặng tè đay ma
Vê la nguổm ngầu chậu suồi băn thâu hau hải sô ka
Chậu đuông chăm-pa khù khiêng hau ma tè nhăm nọi ơi ời.
2–
Kin chầu sẳm khăn tít phăn hủa chay pên nạ hắc khay
Phe vay xơi xôm nham ngẩu hau đôm ô chăm-pa hoom
Mừa đôm kin chầu pan phốp sụ cầu thì phạc chạc pay
Châu pên đoọc mạy, thì ngam vi lay tặng tè day ma
Chậu đuông chăm-pa ma la suổn hắc khoỏng hiêm ny ơi ời.
3–
Ô đuông chăm pa búp pha mương Lao, ngam đằng đuông đao
Sang Lao phơờng chay cợt dù phai nay phèn đin lạn sang
Thạ đay phắt phạc nê lạ thết chạc ban cợt mương non
Hiêm chạ au chầu pên phườn suồm ngẩu tháu sin xi va
Chau đuông chăm pa, ma la ngăm nhình mính mương Lao ơi ời.

* Lời Việt:

1–Hoa đẹp chăm-pa đã bao tháng ngày, hoa đây người đấy
Hoa vẫn ngạt ngào thơm ngát mùi hương tháng năm còn vương
Hoa chăm-pa ơi, bao mùa em khoe sắc hoa trong vườn
Đã bao lâu rồi mà hoa vẫn đẹp nhất trong lòng tôi
Hoa đẹp xinh ơi, em chính người tôi thiết tha yêu thương.
2–Ngạt ngào hương thơm, vấn vương trong lòng, sắc hoa đẹp mãi
Hương ngát làm tôi trăm nhớ ngàn thương bóng ai thầm yêu
Hoa chăm-pa ơi tuyệt vời toả lan mãi trong tim này
Cách xa phương trời mà hoa vẫn còn vấn vương lòng tôi
Hoa đẹp xinh ơi, em chính người tôi mến yêu trọn đời. 
3- Hoa chăm pa ơi, nức muôn hương trời, sắc reo ngàn lối,
trăm thắm ngàn tươi khôn sánh kịp hương sắc chăm pa ơi.
Hoa chăm pa ơi, dân Lào nuôi hoa đã bao năm rồi.
gió đưa hương nồng vượt qua núi đồi tới thôn làng tôi.
Bao ngày thơ ngây hoa đã cùng tôi kết duyên bạn đời.

Đôi bờ
(Tình ca Nga)
Đêm dài qua, dưới mưa rơi, em mong chờ anh tới
Cây cỏ hoa như nói nên lời em hạnh phúc nhất đời
Lòng em riêng biết có yêu anh, giữa tình đôi lứa ta,
Một dòng sông sóng nước long lanh, đôi bờ đâu cách xa.

Trên dòng sông, sóng đôi nhau, thiên nga đùa trên sóng
Bên bờ sông vai sánh vai nhau, đôi đôi bước theo dòng
Mình em riêng đứng ngóng trông anh, với tình yêu thiết tha
Một dòng sông sóng nước long lanh, đôi bờ đâu cách xa.

Đêm dần qua ánh ban mai đang lan tràn dâng tới.
Trên bờ sông soi bóng em dài, xa xa phía chân trời.
Mình em riêng thắm thiết yêu anh, với niềm tin thiết tha.
Một dòng sông sóng nước long lanh, đôi bờ đâu cách xa.

Mình em riêng thắm thiết yêu anh, với niềm tin thiết tha.
Một dòng sông sóng nước long lanh, đôi bờ đâu cách xa.