Thứ Ba, 22 tháng 3, 2011

Lịch vạn niên và cơ sở để xem ngày giờ tốt xấu

          Vừa qua, tại Thư viện tỉnh Nghệ An Câu lạc bộ Hán nôm và Kinh dịch Nghệ An đã tổ chức buổi nói chuyện chuyên đề về Lịch Vạn niên và cơ sở của việc chọn ngày giờ tốt xấu theo dân gian. Báo cáo viên là ông Nguyễn Xuân Tính, nguyên nhà giáo, cán bộ quân đội về hưu. Đây là buổi nói chuyện chuyên đề mang tính khoa học và là vấn đề đang được nhiều người rất quan tâm. Đây cũng là buổi sinh hoạt chung của 2 câu lạc bộ: Câu lạc bộ Hán Nôm và câu lạc bộ Dịch học và các bộ môn khoa học thần bí phương đông. Sau phần báo cáo của ông Nguyễn Xuân Tính, các hội viên của 2 câu lạc bộ đã phát biểu nhiều ý kiến làm rõ và sâu sắc thêm về cơ sở của việc làm lịch, so sánh sự khác nhau giữa lịch Việt Nam và lịch Trung Quốc, sở dĩ có sự khác nhau đó là do nhiều nguyên nhân trong đó có việc lịch ta theo múi giờ số 7, lịch trung Quốc theo múi giờ số 8. Từ đó cách chọn ngày, giờ tốt xấu của ta với người Trung Quốc cũng có sự khác nhau…
       Đây là buổi nói chuyện chuyên đề thiết thực, bổ ích, lý thú và đã thu hút được đông đảo độc giả, thính giả tới tham dự.

                                                            Quang đạo (Chủ nhiệm CLB Dịch học)

Thứ Sáu, 4 tháng 3, 2011

Bát quái (tám quẻ) trong dịch học

1/- Quẻ : Từ tám quẻ đơn biến thành 64 quẻ kép (còn gọi là trùng quái)
Quẻ có hai loại : quẻ đơn có 8 quẻ : Càn, Khảm, Chấn, Cấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Mỗi quẻ có ba vạch ngang.
Quẻ kép do hai quẻ đơn chồng lên nhau luân phiên và thứ tự tạo thành 64 quẻ kép như Hàm, Hằng… Mỗi quẻ có 6 vạch ngang.
2/- Hào :
Hào là vạch ngang của quẻ kép, có 6 hào kể từ dưới lên trên. Dưới thấp là hào Đầu (sơ), rồi Hai, Ba, Tư, Năm, cuối cùng là hào Trên (Thượng)
Hào chia làm hai thứ : những hào có vạch ngang liền gọi là hào Dương (hay Cửu), những hào có vạch ngang dứt, gọi là hào Âm (hay Lục). Hào Đầu gọi là Sơ Cửu, hào hai gọi là Lục Nhị (sáu hai).
3/- Tính của các quẻ, các hào :
Tám quẻ đơn mỗi quẻ đều có tính riêng như: Càn thì manh, Khôn thì thuận, Chấn thì động, Tốn thì lay, Cấn thì đậu, Đoài thì đẹp, Ly thì sáng, Khảm thì đầy.
Tính các hào : hào dương cứng mạnh, đi lên; hào âm mềm yếu, đi xuống.
4/- Tượng của các quẻ và các hào :
Tám quẻ đơn tượng trưng cho mọi vật trong vũ trụ. Mỗi quẻ biểu hiện cho nhiều vật. Ví dụ : Càn là Trời, là tượng con rồng, Khôn là Đất, là tượng con trâu, Chấn là sấm, là tượng cái cây, Khảm là nước, tượng là mây mưa.v.v…
Các hào không có tượng riêng vì không hình dung riêng cho vật gì.
5/- Ngôi vị các hào : Mỗi quẻ 6 hào, tức có 6 ngôi. Hào Đầu là ngôi thứ dân, hào Hai là ngôi tư mục, hào Ba là ngôi đại phu, hào Tư là ngôi đại thần, hào Năm là ngôi vua chúa, hào Trên là ngôi lão thành.
6/.Ứng dụng vào cuộc sống:
    Ứng dụng kinh dịch để biết con trai hay gái hoặc tính toán để sinh con trai hay gái
     - Trong bát quái có (8 quẻ) thì có 4 quẻ Dương là Càn (Kiền), Khảm, Cấn, Chấn và 4 quẻ Âm là Tốn, Ly, Khôn, Đoài
    - Muốn biết sinh con trai hay con gái thì trước tiên phải biết tuổi của người đàn bà mang thai và tháng thụ thai và tuổi của người chồng của thai phụ để đối chiếu vào bát quái.- Nếu tuổi chẵn hay tháng thụ thai tháng
chẵn thì kẻ 2 vạch ngắn (hào âm). Nếu tuổi lẻ hay tháng thụ thai là tháng lẻ thì kẻ vạch dương (hào dương).
     - Khi vạch các hào thì nhớ vạch hào Âm Dương ứng với tuổi chồng ở trên, tuổi vợ ở dưới còn tháng thụ thai thì vạch ở giữa (nhớ tính tuổi chồng và tuổi vợ vào năm tháng thụ thai). Nếu các vạch tạo thành quẻ Dương thì sẽ sinh con trai, quẻ Âm sẽ sinh con gái.
    - Cách tính này có thể sẽ không chính xác nếu gặp năm có nhuận hay khi thụ thai nhằm vào ngày lập xuân, xuân phân, lập hạ, hạ chí, lập thu, lập đông, đông chí....
Ví dụ: tuổi chồng tính vào tháng thụ thai của vợ là 35 tuổi là tuổi lẻ thì vạch một hào dương. Tuổi vợ lúc đó là 28 tuổi là tuổi chẵn vạch 1 hào âm ở dưới vạch đã kể của người chồng. Tháng thụ thai là là tháng 8 (chẵn) thì vạch 1 hào âm ở giữa 2 vạch của chồng và vợ. Ta có quẻ Cấn (con trai).
      Các bạn thử ứng dụng xem có đúng không. Còn nếu dự đoán theo Chu dịch thì cứ khi xem quẻ có nhiều hào dương là sinh con trai, quẻ có nhiều hào âm là sinh con gái.