Thứ Tư, 2 tháng 12, 2015

Tử Phủ đồng cung cách



Tử Phủ Đồng Cung cách
An Mệnh tại Dần Thân, trị Tử Vi Thiên Phủ đồng cung, dữ Lộc Tồn, Khoa Quyền Lộc, Tả Hữu, Xương Khúc, Khôi Việt gia hội, phương hiệp thử cách, bất kiến cát tinh tịnh cát hóa, bất hợp thử cách, Thử cách sinh nhân, tất thiển đại phú đại quý, phúc thọ long xương, Giáp niên sinh nhân hóa cát cực mỹ, Đinh Kỷ Canh Quý niên sinh nhân diệc cát.

Thi viết

Đồng cung Tử Phủ quý sinh nhân
Thiên tại thanh minh vạn tượng tân.
Hỉ phùng Dần Thân đồng đắc địa
Thanh danh lỗi lạc động càn khôn.


Kinh văn

“Tử Phủ đồng cung chung thân phúc hậu”
“Tử Vi Thiên Phủ toàn y phụ bật chi công”


1. Tử Phủ Đồng Cung cách

Mệnh an tại Dần Thân có Tử Vi Thiên Phủ đồng cung, có Lộc Tồn, Khoa Quyền Lộc, Tả Hữu, Xương Khúc, Khôi Việt hội hợp thì đúng cách, còn như không có cát tinh hay không cát hoá thì không hợp cách. Người có cách này chủ được đại phú, đại quý, phúc thọ thịnh dầy. Người sinh năm Giáp hoá cát tuyệt đẹp, còn người sinh năm Đinh Kỷ Canh Quý cũng đẹp không kém.

Thơ viết như sau:

Người sang giàu Tử Phủ đồng cung
Trên trời muôn cảnh đổi mới chung
Cùng ở Dần Thân đều đắc địa
Thanh danh lỗi lạc vang khắp vùng

Sách ghi lại như sau:

"Tử Phủ đồng cung, chung thân phúc hậu"
"Tử Vi Thiên Phủ, toàn y phụ bật chi công" 

 2. Tử Phủ Triều Viên cách

Tử Vi, Thiên Phủ miếu vượng hợp chiếu Mệnh, mà các cung tam phương tứ chính có Lộc Tồn, Khoa Quyền Lộc, Tả Hữu, Xương Khúc, Khôi Việt đúng là cách Tử Phủ Triều Viên.

Cách này có bốn loại:

1- Mệnh có Vũ Khúc Thiên Tướng tại Dần Thân, tam hợp với Tử Vi Thiên Phủ.
2- Mệnh có Liêm Trinh tại Dần Thân, tam hợp với Tử Vi Thiên Phủ.
3- Mệnh có Liêm Trinh Thiên Tướng tại Tý Ngọ, tam hợp với Tử Vi Thiên Phủ.
4- Mệnh có Thiên Tướng tại Sửu, tam hợp Thiên Phủ, và đối cung (cung Thiên Di) có Tử Vi.

Được một trong những cách này không sang trọng tột đỉnh thì cũng giàu có khét tiếng.

Thơ viết rằng:

Sao Tử Vi độc thủ ở cung Mệnh
Người thanh liêm không gặp tai họa
Thêm vào đó có nhiều sao tốt
Suốt đời giàu sang cuộc sống xa hoa

Sách viết như sau:

“Tử Phủ Triều Viên,thực lộc vạn chung”.
Nghĩa là: Ai có cách Tử Phủ Triều Viên thì giàu cỡ tỷ phú.

Thứ Ba, 24 tháng 11, 2015

Vài dạng cách cục: Phủ Tướng triều viên

Cách cục Phủ Tướng triều viên (Thiên phủ, Thiên tướng chầu Mệnh)
Thiên phủ (hoặc Thiên Tướng) tại cung mệnh, Thiên Tướng (hoặc Thiên Phủ) tại cung Tài Bạch hoặc Quan Lộc hội chiếu, không bị sát tinh xung phá (Sao Thiên Tướng cần miếu vượng và không bị Tuần Triệt trấn đóng mới phù hợp).
Ưu điểm: Phú quý song toàn, hưởng lộc dồi dào, được người khác kính trọng, quan hệ xã hội tốt, được quý nhân phù trợ.

Khuyết điểm: Cẩn thận trong chuyện tình cảm và hôn nhân (Phá Quân hoặc Tham Lang đóng tại cung Phu Thê).
Hai sao Thiên Phủ và Thiên Tướng, một sao nằm tại cung Tài Bạch, một sao nằm tại cung Quan Lộc, cùng hợp chiếu cung mệnh, tại cung vị tam phương tứ chính của cung mệnh có Lộc Tồn, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt gia hội mới phù hợp cách cục này. Nếu có tứ sát hoặc Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ gia hội là phá cách. Cách cục này chủ về có tình cảm sâu sắc với người thân và bạn bè, trọng tình cảm.

Cách cục này có 3 trường hợp sau:

1. Cung mệnh an tại cung Sửu không có chủ tinh, tại cung Tỵ có sao Thiên Phủ tại cung Dậu có sao Thiên Tướng chầu về, Cung mệnh an tại cung Mùi không có chủ tinh, tại cung hợi có sao Thiên Phủ, cung Mão có sao Thiên Tướng chầu về, Cung mệnh an tại cung Mão không có chủ tinh, cung Hợi có sao Thiên Tướng, cung mùi có sao Thiên Phủ chầu về, Cung mệnh an tại cung Dậu không có chủ tinh, cung Tỵ có sao Thiên Tướng, cung Sửu có sao Thiên Phủ chầu về.

2. Sao Thiên Phủ trấn mệnh tại cung Sửu (Mùi), sao Thiên tướng tại cung Tỵ (hoặc Hợi) chầu về, Sao Thiên Phủ trấn mệnh tại cung Mão (Dậu), sao Thiên Tướng tại cung Mùi (Sửu) chầu về, sao Thiên Phủ trấn mệnh tại cung Tỵ (Hợi), sao Thiên Tướng tại cung Dậu (Mão) chầu về.

3. Sao Liêm Trinh trấn mệnh tại cung Dần (Thân), sao Thiên Phủ, Thiên Tướng tại cung Ngọ và Tuất (Tý và Thìn) chầu về, trường hợp này xem thêm cách cục Tử Phủ triều viên tại phần trước.

Ca Quyết:
Mệnh cung Phủ Tướng đắc cụ phùng
Vô sát thân đương đãi thánh quân
Phú quý song toàn nhân cảnh ngưỡng
Nguy nguy đức nghiệp mãn càn khôn

Nghĩa là:
Cung mệnh gặp được Phủ cùng Tướng
Chẳng gặp sát tinh đợi vua hiền
Phú quý song toàn người ngưỡng vọng
Công đức lấy lừng khắp nhân gian

Trong kinh văn có câu: "Thiên Phủ, Thiên Tướng là thần tước lộc, xuất sĩ làm quan, ắt là điềm hanh thông". Phủ Tướng gặp gỡ tại cung mệnh, cả nhà ăn lộc", Phủ Tướng triều viên là cực tốt, xuất sĩ làm quan rất tốt lành" (Cũng cần không bị tứ sát và các sao ác sát xung phá), Cung Dần gặp Phủ Tướng được làm quan nhất phẩm, mệnh nữ gặp sao Phủ, Tướng, con cái hiển đạt chồng vinh hoa".

Tử Vi thủ Mệnh
1)  Tử Vi độc thủ tại Tý Ngọ



Tử Vi cư Ngọ tốt hơn cư Tý vì cung Ngọ thuộc thế hỏa( thiên thời ), hành hỏa ( địa lợi ), cung Dương mà Tử Vi lại thuộc dương thổ, trong khi đó cung Tý thuộc thế thủy, hành thủy ( mà thổ khắc thủy), hơn nữa Tử Vi cư Ngọ được Âm Dương tịnh minh ( Thái Dương tại Mão : Nhật xuất Phù Tang ; Thái Âm cư Hợi : Nguyệt lãng Thiên Môn ), trong khi đó Tử Vi cư Tý thì Nhật Nguyệt lạc hãm.



 Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ đóng tại Mệnh Thân ( sinh giờ Tí, Ngọ), nếu hợp Mệnh ( Thổ, Kim, Hỏa) với hình tướng Tam Đình Cân xứng, Ngũ Quan đầy đặn không khuyết hãm ; Chỉ tay không bị đứt quãng ( vì giờ Tý có Thiên Hình tại giải ách : dễ bị rắc rối pháp lý hay thương tích) là mẫu người thông minh trung hậu, nghiêm cẩn uy nghi, chính nhân quân tử, hào hiệp, ưa cứu khổn phò nguy ; nếu thêm tuổi Giáp, Đinh , Kỷ có Lộc Tồn và Tam Hóa Khoa Quyền Lộc, tuổi ( Dần Ngọ Tuất) lợi ở Thiên Thời, cục Hỏa ăn vòng Tràng Sinh. Nếu sinh giờ Dần Thân thì THÂN cư Cung Quan Lộc có Liêm Phủ ; sinh giờ Thìn Tuất thì THÂN cư cung Tài Bạch có Vũ Tướng, vắng bóng Hung Sát Tinh thì Cuộc Đời Qúy Hiển, chung thân hưởng phú qúy, trong môi sinh dễ Công Hầu Khanh Tướng. Nếu sinh giờ Tỵ Hợi thì THÂN cư Thê có bộ Sát Phá Tham thì được người Vợ năng động, giỏi tài quán xuyến hộ trợ ở vai trò Nội Tướng.



Mệnh Thân đóng tại Tý Ngọ có Tử Vi độc thủ đó là cách TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG LIÊM THAM với hình tướng tốt, biểu hiện một Chính Nhân Quân Tử, nếu có Trung Tinh đắc cách ( Khoa, Quyền, Lộc, Khôi Việt, Long Phượng, Thai Toạ, Ân Qúy?) vắng bóng Hung Sát tinh : cuộc đời gặp nhiều may mắn bất ngờ, trong môi sinh là bậc Trưởng Thượng, ung dung khoan thai, biết tiến thóai, cương nhu đúng lúc ; có thể làm bất cứ nghề nào cũng được và trong bất cứ Lãnh Vực nào cũng là người Lãnh Đạo được trọng vọng nể vì.



Tử Vi cư Ngọ, Tý ( nhất là Ngọ) còn được gọi là cách Ngưỡng Diện Triều Đẩu, nếu Mệnh Thân đóng tại Ngọ ( hay Tý)- bao giờ cung Quan Lộc cũng có Liêm Phủ, cung Tài Bạch có Vũ Tướng cộng thêm yếu tố Thiên Thời ( vòng Thái Tuế), địa lợi ( phù hành bản Mệnh), nhân hoà ( trung tinh đắc cách xa lánh Hung Sát tinh+ Tuần Triệt) +hình tướng uy nghi : mẫu người Lãnh Đạo với khả năng Luật, Kinh Tế, Tài Chính, Ngân Hàng là môi trường dễ phát triển thành công vì Quan Lộc được Liêm Phủ hỗ trợ. Ở Số là người không Qúy cũng Đại Phú ( vì 3 Tài Tinh : Vũ, Phủ, Lộc Tồn đóng tại Mệnh Thân ) nên Phú đã có câu :



 Tử Vi cư Ngọ vô Hình, Kỵ - Giáp, Đinh, Kỷ vị chí công khanh.



 Nếu gặp sát tinh ( Kình Đà Linh Hỏa, Hình, Kỵ, Tuần Triệt, Thiên Không nghiã là mất vòng Thái Tuế, Lộc Tồn )+ hình tướng thấp bé, ngũ quan khuyết hãm lại trở nên tầm thường ; cuộc đời gian truân, lận đận. Tuy vậy những người Tử  Vi thủ Mệnh dù ở mội trường nào vẫn có vẻ ngoài bề thế như   Cọp lìa rừng, dù nằm trong Sở Thú vẫn còn danh Chúa Sơn Lâm.

Quang Đạo: Chủ nhiệm Câu lạc bộ Kinh dịch Nghệ An
Chuyên xem quẻ dịch, xem số Tử vi, xem ngày và tư vấn Phong thủy.
ĐT: 0983225079; EMail: lequang306@gmail.com
Khách ở xa có thể chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng hoặc cũng có thể chuyển bằng thẻ điện thoại


Chủ Nhật, 18 tháng 10, 2015

Sinh hoạt chuyên đề: Năm tháng ngày giờ sinh với Vận mệnh đời người

Vừa qua, tại hội trường Thư viện tỉnh, Câu lạc bộ Kinh dịch Nghệ An đã tổ chức buổi sinh hoạt chuyên đề; "Năm tháng ngày giờ sinh với vận mệnh đời người". Đến dự có đông đủ hội viên của Câu lạc bộ và khách mời của Thư viện tỉnh. Sau trình bày có tính chất đề dẫn của Chủ nhiệm Lê Quang Đạo, đã có rất nhiều ý kiến tham luận của các chuyên gia huyền học xoay quanh chủ đề. Với việc lấy yếu tố năm tháng ngày giờ sinh để dự đoán số mệnh, vận hạn, sự sang hèn, giàu nghèo, thọ yểu của một đời người thì có khá nhiều môn vận dụng như Tử vi, Tứ trụ, Hà lạc, Thái ất, Kinh dịch... Mỗi môn đều có sở trường và sở đoản của nó, nhưng nhiều người tâm đắc với Tử vi và Tứ trụ, đặc biệt là môn Tứ trụ, (còn gọi là Tử Bình bởi môn này do ông Tử Bình thời nhà Tống bên TQ phát minh), sở dĩ nhiều người tâm đắc tìm hiểu nghiên cứu là vì sau khi biết được số mệnh và vận hạn của mình thì môn này còn có cách bổ cứu dụng thần nhằm cải vận để có thể tìm cát tránh hung, tìm lành tránh dữ. Do đó việc tìm Dụng thần là vấn đề rất quan trọng trong Phép dự đoán Tứ trụ. Dụng thần có thể là hành thiếu hụt cần bổ sung, cũng có thể là có hành nhiều quá, vượng quá cần phải điều tiết hoặc khắc chế bớt... cái này là tùy từng trường hợp cụ thể, cần sinh phù thì sinh phù, cần ức chế thì ức chế, cần điều hầu thì điều hầu, cần thông quan thì thông quan... Ngoài ra để cuộc đời có thể lên hương thì trong trụ cúng cần có các Thần như Quý nhân, Lộc, Mã, Kim dư.v.v.. Dó đó, cùng với thời điểm thụ thai, thời điểm ra đời của một con người là rất quan trọng trong việc dự đoán.


Một người khi cất tiếng khóc chào đời chính là thời khắc bẩm thụ khí trời đất, mà "thước đo" chính là Năm-Tháng-Ngày-Giờ. Mà Năm Tháng Ngày, Giờ được thể hiện bằng 4 trụ được tạo bởi các cặp Thiên Can-Địa Chi. Mà các cặp Thiên Can-Địa chỉ có tổng số 60 cặp (Bắt đầu từ Giáp Tý ......), do sự kết hợp giữa Dương Can + Dương chi và Âm Can+Âm chi tạo thành. Chỉ với 60 cặp Can chi này mà hàng ngàn năm nay, con người tìm tòi để ứng dụng trong các môn dự đoán vạn sự trên đời, thì phải nói là chúng ta đã phần nào nắm bắt được quy luật Vận hành của trời đất để ứng dụng vào đời sống xã hội, có được những kết quả mong muốn nhất định nói chung, và môn dự đoán theo Tứ trụ nói riêng.

Tứ trụ gồm Trụ năm-Trụ tháng-Trụ ngày-Trụ giờ, bản thân từng Trụ như chúng ta đã biết, được đại diện bởi các cặp Can-Chi, Thiên Can có tên gọi Giáp, Ất ...... hay Địa chi Tý, Sửu .... Để phân tích, đánh giá Tứ trụ của một người, người ta dùng quy luật của Âm Dương-Ngũ Hành để trả lời chính xác các câu hỏi liên quan đến các vấn đề của cuộc sống mỗi người, mỗi nhà từ cái đã qua cho đến tương lai, từ lúc Sinh đến khi kết thúc sự sống(Chết) của một vòng đời.

Vậy, Quy luật Âm Dương-Ngũ Hành là gì? Nó là quy luật cơ bản nhất của Khí (Là cái mà ta không nhìn thấy, không sờ thấy, mà hiện nay cũng không có cách gì để đo đếm được thì phải), và Hình là mọi sự vật tồn tại trên thế gian này. Và mọi thứ đều được quy nạp vào Âm Dương-Ngũ Hành, rồi dùng quy luật của nó để xem xét, phán đoán phát sinh lành dữ của mỗi người, mỗi nhà ở vào thời điểm nhất định(Đó là Thời gian). Như vậy, chữ Thời rất quan trọng trong mọi phép đoán, nó là "thước đo" của Thịnh suy của Ngũ Hành. Theo đó, mỗi năm, tháng, ngày, giờ với mỗi người, mỗi nhà .... và với mỗi quốc gia hay với Trái đất này sẽ có trạng thái riêng, chỉ sự phát triển của mình trong một giai đoạn phát triển, nằm trong vòng Sinh-Tử. Vậy giai đoạn đó lấy gì để biết được nó hoạt động ra sao, đặc trương của nó là gì ..v..v.. >>> Chỉ có thể dùng Âm Dương-Ngũ Hành và Thời gian để luận giải.

Âm Dương-Ngũ hành là khái niệm quan trọng trong Dịch học, nó bao quát vạn sự bao la như Vũ trụ hay những sự vật, hiện tượng dù nhỏ nhất đều được Quy nạp vào Âm dương-Ngũ hành. Ví như Trong- ngoài, Trên -dưới, Đất - Nước .... Như với con người Nam, Nữ; Cao- thấp, Béo gầy, ...., trong cơ thể là Tim, Phổi; hay hình thể Đầu-Thân mình, chân, tay ...cũng như Giầu -nghèo, Sang-Hèn, Thọ yểu, Vợ chồng, Con cái, Tình yêu, hôn nhân ..... Vậy mỗi vấn đề đã quy nạp vào Âm dương-Ngũ hành trên với con người mà nói, khi nào thì phát sinh, ứng nghiệm vào ai, việc gì, bộ phận nào trên cơ thể ..v.v.. Chỉ có thể dùng Thời vận để đo lường sự Sinh-Khắc; Vượng suy của Âm dương-Ngũ hành .... để xét đoán.

Thời Vận hay Vận hạn là gì? Thời là thời gian, được thể nghiệm thông qua Can-Chi chủ quản mỗi đại vận 10 năm và mỗi tiểu vận là 1 năm. Còn Vận là gì, quả là khó diễn giải hết căn cứ, ý nghĩa của nó. Nói một cách đơn giản là song song với Thời gian vận hành liên tục không ngừng, còn có một đơn vị đo lường khác tồn tại song song, mà với mỗi người có một Vận riêng, và Vận này cũng được tạo bởi cặp Can-Chi, thí dụ như Giáp Tý hay Ất sửu chẳng hạn. Do vậy, người ta thường nói Thời vận mới thể hiện được cơ sở để đoán định các sự vật hiện tượng xảy ra trong một khoảng thời gian nào đó.

Con Người đã bẩm thụ khí của Trời Đất, cho lên cũng không thoát khỏi quy luật vận động của Trời đất (Thông qua Âm dương-Ngũ hành). Mõi người sinh ra đều có Tứ trụ: Năm Tháng Ngày Giờ gọi là nguyên Mệnh, có tứ trụ tức là đã biết được Khí Âm dương, sinh vượng, trong đục, thông qua quy luật Sinh khắc, chế hoá ..v.v..để biết được Mệnh Giầu-nghèo; Sang-Hèn; Thọ-Yểu; Bệnh tật; Tai hoạ; Tình yêu; Hôn nhân; hoàn cảnh gia đình; thăng quan tiến chức; Tiền tài danh vọng ..v.v.. Thông qua Thời Vận để biết được khi nào thì phát sinh tốt xấu, ứng vào ai trong gia đình hay bộ phận nào trên cơ thể; Hay khi nào nên kết hôn, hôn sự thế nào, khi nào nên đầu tư kinh doanh, kinh doanh nghành nghề nào; Đi về phương nào kinh doanh thì có lợi được giầu sang phú quí, phương nào thì bất lợi, thậm trí phá sản ..v.v.. cũng là tuỳ Người, tuỳ Thời Vận >>> Đó cũng là mục đích nghiên cứu các môn Dịch học nói chung, Dự đoán tứ trụ nói riêng. Đó chính là Lý do để môn Dự đoán theo Tứ trụ tồn tại hàng trăm năm, luôn có sức sống mới, đặc biệt như chúng ta đang ở thời kỳ Vận 8-Bát bạch là thời kỳ sức sống của Dịch học đang được Thời, bởi được Ông Sao tốt quản

Nói tóm lại, Dự đoán Tứ trụ là để biết dước lành-Tránh dữ cho phù hợp với quy luật vận hành của Trời đất, là quy tắc chung của mọi môn phái là "Thuận Trời thì sống, chống lại thì chết".

Cùng xem và suy ngẫm

Có hai thứ cha mẹ cần trang bị cho con cái, và chỉ hai thứ đó là đủ.
Tỉ phú Hong Kong Yu Pang-Lin vừa qua đời ở tuổi 93, để lại di chúc hiến toàn bộ tài sản trị giá khoảng 2 tỉ USD cho hoạt động từ thiện.
“Nếu các con tôi giỏi hơn tôi thì chẳng cần phải để nhiều tiền cho chúng. Nếu chúng kém cỏi thì có nhiều tiền cũng chỉ có hại cho chúng mà thôi” – ông Yu Pang-Lin khẳng định.
Yu Pang-Lin không phải là người đầu tiên trên thế giới “keo kiệt” với con nhưng lại hào phóng với xã hội. Người giàu nhất thế giới – Bill Gates – từng tuyên bố sẽ chỉ để lại cho con 0,05% tổng tài sản kếch xù của mình. Báo chí hỏi tại sao lại như vậy, ông trả lời đại ý: Con tôi là con người, mà đã là con người thì phải tự kiếm sống, không chỉ kiếm sống để phục vụ chính bản thân mình mà còn phải góp phần thúc đẩy xã hội. Đã là con người thì phải lao động. Tại sao tôi phải cho con tiền?
Nhưng cũng có những người con sẵn sàng từ chối thứ mà “đời bố hi sinh” để “củng cố” cho mình. Stephen Covey – người từng được tạp chí Time bầu chọn là 1 trong 25 nhân vật ảnh hưởng nhất thế giới, tác giả cuốn sách nổi tiếng 7 thói quen để thành đạt – viết di chúc để lại tiền cho con và ra đi năm 2012.
Cả chín người con không ai nhận tiền. Họ lý giải rất giản dị rằng họ là những người bình thường và hoàn toàn có thể tự lao động, tự kiếm sống được.
Tương tự, tỉ phú Warren Buffett viết di chúc chỉ để lại 10% tài sản của mình cho con, còn lại là làm từ thiện. Tuy nhiên, ba người con, dù không phải quá giàu có, cũng từ chối và dành luôn số tiền đó cho từ thiện.
Những người cha kiên quyết không để lại tiền cho con hoặc những người con quyết liệt không nhận tài sản thừa kế chắc chắn không phải là những người không coi trọng đồng tiền, vì hơn ai hết họ đã phải đổ mồ hôi, công sức và trí tuệ cả đời để tạo dựng nên sản nghiệp.
Tuy nhiên, họ cũng hiểu có một thứ còn quý giá hơn tiền, quan trọng hơn tiền, đó chính là trách nhiệm, mà trước hết là trách nhiệm với chính mình (tự mình phải chịu trách nhiệm về mình), rồi trách nhiệm với gia đình, cộng đồng, xã hội… Họ cũng ý thức được một cách sâu sắc ẩn họa của việc xài những đồng tiền không do chính mình làm ra.
Có người nói rằng có hai thứ mà cha mẹ cần trang bị cho con cái và chỉ hai thứ đó là đủ, còn không, nếu có để lại cho con thứ gì đi nữa mà thiếu hai thứ đó thì coi như chưa cho con gì cả.
Hai thứ đó là: ý thức tự chịu trách nhiệm về bản thân mình và năng lực để tự chịu trách nhiệm.
Một con người biết trách nhiệm và có năng lực để thực hiện điều đó khi đi học sẽ học thực, học vì mình (và do đó sẽ khó có kiểu học đối phó; mua điểm, mua bằng; học vì cha, vì mẹ); khi đi làm sẽ làm hết mình, tự giác và luôn hướng tới hiệu quả cao nhất (và do đó sẽ không có kiểu làm “giả cầy”, thụ động; làm gian, làm dối như nhiều trường hợp mà không khó cũng có thể nhận diện được ở các cơ quan, công sở nhà nước ta)…
Không để lại tiền cho con nhưng để lại cho con ý thức trách nhiệm và trang bị cho con năng lực để tự chịu trách nhiệm thông qua giáo dục làm người, giáo dục làm việc, ấy là đã để lại một sản nghiệp đồ sộ cho con rồi.

Thứ Năm, 10 tháng 9, 2015

Thăng thiên vấn bần

Nhớ hồi còn nhỏ, được ông nội đọc cho nghe bài thơ "Thăng Thiên vấn bần", không rõ tác giả, thấy hay quá bèn tìm chép lại đăng lên mạng để phục vụ bạn đọc gần xa, nhất là các bậc thức giả "Chớ thấy nghèo mà vội phàn nàn, cũng đừng thấy có mà toan vắt vẻo"


THĂNG THIÊN VẤN BẦN

Thì năng chi thị thôi vân lộ,
Ngã tương bình bộ, thượng thăng thiên.
Nhớ thuở xưa Tý hội khai thiên,
Mới biết được nhất nguyên nơi Giời ở.
Hói quê quán nhà Giời đâu thế hở,
Có tiện đường ta thử lên chơi
Chốn đông tây ấy ngõ nhà giời
Chấn môn xuất nhi loài môn nhập.
Nhớ thuở trước Phan Long mạc cập,
Đường thăng thiên cung bậc ngại ngùng thay.
Buổi văn minh ta gặp hội này,
Lên giời sẵn tàu bay không mấy chốc.
Giương thẳng cánh vặn xoay máy trục,
Thẳng gió đưa thông thốc bay lên,
Kim nam châm phương bắc chỉ miền,
Cứ gióng thẳng, Đông thiên là nẻo ấy.
Năm giờ sáng tàu bay lên tới đấy,
Rạng đông rồi Giời mới ló ra
Liền chắp tay bái lạy Giời già
Giời mới hỏi đi đâu mà sớm thế.
Trình rằng:” Có nhân gian sự thể,
Lên hỏi Giời, Giời kể cho hay
Sao Giời công mà lại riêng tây
Chi nỡ để lòng này chi lắm tá.
“Đồng thị thiên quang, đồng thị dã
Kỷ nhân phú quý, kỷ nhân bần”.
Đã sinh ra ai chẳng là thân
Người giàu có kẻ nợ nần chi ác nghiệt,
Sao có kẻ ăn tiêu không hết, người thì lần đến mệt chẳng ra
Thế mà Giời bảo công a, trời lại bảo “trời sinh trời dưỡng”.
Giời đỏ mặt mắng:” Thằng nói bướng,
Của đứt giây rơi xuống rõ con nhà
Nhác trông mình phong độ nho gia
Người đọc sánh sao mà không nhớ sách.
Chữ minh công phải xem cho minh bạch
Tự tri bần, còn oán trách chi ông
Tạo hóa đây ông nhắc lại là công
Người đọc sách lẽ đâu ông có phụ.
Si tủng ấm á gia hào phú
Trí tuệ thông minh khước thụ bần.
Tỵ nạnh chi những kẻ si nhân,
Câu quân tử đa truân ai mà chả.
Nó vụng dại chẳng cho nó khá
Tài nó hèn làm chả nên ăn.
Ngươi khôn ngoan dù có khó khăn,
Khéo thu xếp tảo tần rồi cũng đủ.
Nhân gặp hội cao long đắc vũ,
Có đỉnh chung mà cũng đủ cân đai.
Ta đã cho ta có bảo ai,
Rồi mới biết chẳng sai tay tạo hóa.
Kìa Vương Khải,Thạch Sùng đấy nhá,
Ta ngoảnh đi mà tiền phú hóa hậu bần,
Nghèo như Mông Chính, Mãi Thần,
Ta nhắc lại, mà tiền bần hậu phú.
Thôi hạ giới hãy nghe ta nhủ,
Mau trở về bảo với lũ nhân gian,
Đừng thấy nghèo mà vội phàn nàn,
Đừng thấy có mà toan vắt vẻo,
Như con túng dễ ai ăn đứt,
Tiền bạc nghèo, tai mắt có nghèo đâu.
Con về phải nghĩ cho sâu,.
Đừng mơ tưởng sự giàu cùng sự có.
Chúng nó có mặc cha chúng nó,
Mình có tài, hẳn có vinh hoa.
Đừng trách Giời, đừng giận người ta,
Ai như thế mới là người học thức ».
Nghe Giời giải, xuôi lòng ấm ức
Tạ Giời xanh mà lạy đức cao minh,
Quay tàu ra nhẹ bước đăng trình,
Giang thẳng cánh rập rình xuôi hạ giới.
Việc túng bấn bỏ qua không nghĩ ngợi,
Ta có Giời, Giời lại có ta
Lẽ đâu chịu thế này a !


Chủ Nhật, 6 tháng 9, 2015

Dạy tiếng Lào

Để phục vụ nhu cầu giao lưu và hợp tác ngày càng tăng với bạn bè quốc tế, nhất là với nước bạn Lào gần gũi:
"Thương nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua
Việt Lào hai nước chúng ta
Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long" .
Quang Đạo mở lớp dạy tiếng Lào tại nhà. Bạn nào có nhu cầu học tiếng Lào xin liên hệ số máy: 0983225079. Tôi sẽ đáp ứng nhu cầu của các bạn. Kinh phí tự nguyện bao nhiêu cũng được, trên tinh thần Vui vẻ là chính nhé!
 Thân ái!

Thứ Năm, 20 tháng 8, 2015

Xem số tử vi


Tử vi Nữ mệnh


Này Nữ mệnh xem tường cách cuộc,
Chính tinh kia có được miêu viên,
Hoặc vào Vượng địa khá khen;
Nhược lâm hãm địa đảo điên cuộc đời.
Cung Phu, Phúc đôi nơi phải rõ,
Mới  luận bàn độ số hư nên,
Tử vi đóng Mệnh bậc hiền,
Vượng phu ích tử lại thêm sang giàu.
Liêm đắc địa là màu trinh nữ,
Ở Dần, Thân, Tý, Ngọ đang mong.
Gặp Đồng hội ở một cung,
Ấy người phúc trọng đảm đương mọi phần.
Nhật đắc địa từ Dần đến Ngọ,
Tăng phong lưu nếu có cát tinh.
Hai phương phủ, Tương triều minh,
Giáp, Canh, Tân, Át càng xinh càng giàu.
Cự cơ Dần, Mão âu phí quý,
Lòng dâm tư vẫn để một bên.
Kể chi những cách hư rèn:
Nguyệt Thìn, Lương Tỵ, Hợi viên đó mà.
Thói dâm dật xướng hoà kém phúc,
Ấy Văn Xương, Văn Khúc ai khen.
Vũ không gặp đất miếu viên,
Khác chi Xương, Khúc gối loan lạnh lùng,
Số Tham, Phá hào chồng rất kém
Những cô đơn dâm hiển là kinh.
Sát hung kém phúc đã đành,
Dần, Thân cơ, Nguyệt đã đành đâm bôn.
Quyền, Lộc ấy hợp phường nhất xứ,
Số Vượng phu ích tử ai qua,
Kiếp, Không, Linh, Hoả, Kình, Đà.
Liêm trinh, Cự, Vũ lại hoà Tham Lang.
Hai phu mệnh tam phương tứ chính,
Thầy những loại ác tính kinh thương.
Hình, Diêu số gái long đong,
Nếu không kể thất, lộn chồng mà thôi.
Kỵ, Kiếp, Kình hợp ngôi phu vị,
Kìa người phương chạ loạn chung:
Đào, Diêu số ấy trong lòng chẳng chinh;
Nhưng gặp được: Quý, Hình, Tử, Phủ,
Dạ sắt vàng nào sợ lung lay,
Bạc tình hạng gái ghê thay,
Dần, Thân, Tham sát giữ tay nhân cùng
Vận hạn đến Đào, Hồng, Cát, Hỷ,
Lòng gái trai bất dĩ dâm bôn.
Đào, Tang đóng ở mệnh cung,
Lẳng lơ gái ấy phung loan đứt tình.
Kìa Khôi, Tướng bên mình Tả Hữu,
Lại gặp thêm Tử, Phú quá xinh.
Thiên lương, Thiên mĩ đồng hành,
Yêu kiều gái ấy dấn mình bướm ong.
Dương Phi đẹp vốn giòng Cơ, Nguyệt,
Lại Khúc, Xương ba miệt triều viên.
Mệnh bà Lã Hậu chuyên quyền,
Song Lộc ngộ Mã thủ liền một cung.
Đào, Long, Phụ, Bật phùng sau trước,
Hoặc đào, Nô lỡ bước cầu ô.
Khéo nghề kim chỉ thêu thùa,
Hồng Đào, Tấu Vũ ở vừa mệnh cung
Đào Tấu Hỷ Vũ Hồng họp mặt,
Người xướng ca tiếng nức nhà quan.
Phụ Bât ngộ Thái âm nhàn (cung Họi)
Số làm bà Đỡ cứu phường trẻ sinh.
Nguyệt Lượng hội, nữ thanh mỹ tú,
Giòng quyền hào Tử Phủ đồng lâm.
(ở Dần Thân Tỵ Hợi vượng phu ích tử)
Thái âm Mệnh ở Mão Dần,
Lo đường kinh nguyệt chẳng phần thong đong.
Sao Tả Hữu đồng cung gặp gỡ,
Mệnh Đào Hoa, Giáp Nguỵêt ai tày,
Giáp Tả Giáp Hữu vui vầy quý nhân,
Nam nhi sợ nhất phần Nhật hãm,
Nữ mệnh kinh Kỵ ám hay tà
Thái âm hãm Kỵ trùng gia,
Truân chuyên đau ốm thật là lắm phen.
Cung phu đóng ở miền tứ mộ,
Gia Hồng Loan ấy số khóc chồng,
Tử Tức Thiên Hỷ thủ trung,
Nhật Nguyệt lai chiếu sinh giòng quý nhi
Số Diêu Gỷ tai bay vạ gió,
Số Kiếp Không lắm độ gian nan
Mã Đào  duyên nợ tự sinh
Không cần mối lái, ái tình kết giao.
Dương Đà Tuế lâm vào khẩu thiệt,
Còn Đà la ngộ Nguyệt loạn dâm
Tật cung Thai Hồ huyết băng,
Tấu Thư Hoa Cái mệnh phùng thanh cao.
Cái ngộ Mộc gái nào đoan chính.
Mã ngộ Không là tính phiêu bồng.
Lộc Mã thủ, chiếu mệnh trung,
Vượng phu ích tử vốn giòng đoan trang,
Xương Khúc hợp ấy hàng gái đẹp,
Gặp Thiên Cơ hoá kiếp dâm tà,
Xương Diêu đáng sợ thay là,
Ấu nhi đã thích bôn ba dâm loàn.
Phượng Long hợp là phường thuần hậu;
Khốc hư tuy táo bạo hậu chung.
Nữ lưu cốt ở Phu cung
Mệnh thân xấu tốt đừng hòng, đừng lo.
Mệnh vô chính diệu đáng chê,
Cung Phu Tham đóng giữ bề tiểu tinh.
Địa Kiếp với Hồng sanh phu vị,
Cung Mệnh xinh duyên ấy trăm năm.
Mệnh xấu duyên đứt tơ tằm,
Sinh ly sẽ địch loan phòng ro năm
Cung Phu lại Đào Hồng tượng ngộ,
Vợ với chồng đều có dung nhan.
Hông Đào ngộ Kỵ Phụ cung,
Tơ hồng đã đứt, má hồng còn vương.
Thiên, Nguyệt Đức Đào Hồng cung Phối.
Giá chồng sang, trái hội giai  nhân.
Song Lộc hội Phu Thê cung,
Vợ chồng phối hợp vốn giòng giàu sang,
Phu cung: Diêu , Sát Hình Dương.
Hội giao Linh, Hỏa gái toan giết chồng.
Thiên quan, Thiên phúc thủ trung,
Tôn Tăng kính phật dốc lòng thiện gia.
Tham, Liêm hãm mệnh gian tà,
Hồng, Đào, Diêu, Hỉ ắt là dâm bôn.
Trai bất nhận phá quân Thìn, Tuất.
Gái bạc tình Tham, Phá mệnh cung.
Phủ phùng Tất sát chi khôn (sát ở Tý, Ngọ)
Kiếp, Diêu hội ngộ đa vương lưới tình.
Đào, Diêu hội bên mình khá rõ,
Không, Quý, Hình, Tử Phủ ngoại dâm.
Vũ, Quyền nữ Mệnh đồng lâm,
Gái khôn khiến đấng phu quân nể vì.
Tài buốn bán nhiều bề giỏi dắn,
Mã mệnh cung, Tồn hẳn Thiên di.
Ghen đâu năm chọn tháng chày,
Bởi Tham Vượng địa đóng rày mệnh cung.
Thai Binh tướng Đào Hông tương hiệp,
Chẳng chửa hoang, bị hiếp bất ngờ.
Tất sát cung phúc đáng lo,
Nhỡ nhàng số ấy ca nô hành nghề.
Hình, Đào Sát đáng chê cung Phối
Hoặc Tài, Điên, Tử tức long đong.
Luận xem nữ mệnh cho tường
Tinh anh phán đoán mọi đằng chẳng sai.
 

Tử vi nam mệnh

Tử, Phủ trọng hậu khác thường,
Vũ, Tham: người nhỏ là  phương tham lam.
Tứ phùng không, kiếp hiềm giam,
Hoặc là Tứ sát trong làng gian phi.
Thìn Tuất: Phủ, tướng phùng suy,
Tính hay chấp nhất đa nghi mội bề.
Tham, Liêm: Tỵ, Hợi đáng chê,
Tính tham thấy của người mê liền vồ.
Vũ, Tham đầu nhỏ mình to.
Phá, Liêm xốc xếch sức đo hơn người.
Cự, Con Dậu thâm môi;
Cơ, Lương, Vũ, Phá là người có uy,
Sát phùng Thiên hỉ khá hay,
Ấy là phong nhã uy nghi mọi đàng,
Khúc xương là đấn thanh nhàn,
Thật thà đúng đắn là làng đồng, lương.
Việt, Khôi là cách văn chương,
Khôi là khôi ngộ, Việt thường da đen.
Mặt hoa ấy hội Khoa Quyền;
Vũ, Tham, Hoá lộc râu liền đến tai.
Đấng vàng là hội Phong, Thai.
Long trì, Phượng các ấy ai dịu dàng.
Đẹp thay tả hữu một phương.
Khốc hự quanh mát thường thường tròn thâm.
Tham đảo tốt tóc xanh râm;
Mắt đen vũ, Kỵ chẳng nhầm một ai.
Việt, đà tiếng nói khoan thai;
Đồng, không, hư, nhận lắm lời thị phi.
Mộc tính làm dáng ai bì,
Hay khoe mình cũng bởi vì lam quan.
Trường sinh, lực sĩ nói ngoan;
Phủ phùng Thiên mã luận bàn thấp cao.
Quy, ân là khách phong tao,
Trên nào cũng vị, dưới nào cũng yêu.
Thanh long cơ biến đủ điều,
Tấu thư nói ngọt người theo ngay về.
Hỉ thần, hoa cái tốt ghê,
Khẩu thiệt trường đoàn mọi bề đảm đang,
Kiếp, không da ắt đen hoàn;
Hoả, linh mặt khó sầu đâm đêm ngày,
Kình dương tai kém mình gây,
Đà la mắt lớn, chân tay thì dài.
Đào, hồng mặt mũi xinh tươi,
Ky, Hình, Đà, nhận là người tật thương.
Vũ, Diêu, Toái ngọng lẽ thường,
Lại thêm Việt, Kỵ ắt phường điếc câm.
Đồng cung Diêu, Kỵ chẳng nhầm,
Số mà như thế chịu phần sứt môi.
Tham lâm hãm địa là người,
Trong hai nách những mồ hôi một lò.
Người mà mắt nhỏ mắt to,
Nhật phùng đào, Sát tương phò mệnh viên.
Âm, Dương lạc hãm không nên,
Trong ngoài Diêu, Kỵ cho nên mắt loà.
Mắt to mắt nhỏ ấy là,
Nhật phùng Không hãy đoán ra rõ mười.
Phủ Phùng Thất sát nực cười,
Mắt to tai nhỏ là người dị nhân,
Gù lưng thôi chớ  phân vân:
Nhật Phùng Kỵ, Sát lại lâm bệnh phù.
Đà la hắc tử (mụt ruồi) điềm to.
Cự môn, Hoá kỵ âu lo hão huyền.
Tham lam Thái tuế một miền,
Trong ngoài cơ trí đảo điên khó đồng.
Triệt, Tuân đóng ở mệnh cung,
Thiếu niên tân khổ lo toan mọi đường.
Cô thần, quả tú mệnh cung,
Tính người cô độc không màng giao du.
Lộc tồn giàu có về sau
Trường sinh, đế vượng ấy màu thiện lương.
Phủ phùng thất sát chí khôn,
Việc làm táo bạo, những toan hơn người.
Giáp Long, Giáp Phụng đôi nơi,
Tả Hữu, Thai Toạ lâu đài thiếu niên.
Kình, Đà giáp với Mệnh viên
                        Hoặc là không, Kiếp bần hàn yểu vong,
Tứ linh: Cái, Hồ, Phượng, Long,
Công danh quyền thês lẫy lừng một khi,
Tấu thư, Hoa cái thanh kỳ,
Mộc Diêu, Hoa cái ắt thì dâm bôn.
Hổ mà gặp Tấu đồng cung,
Công danh thì cử nên công dễ dàng.
Hổ mà gặp phi đồng sàn,
Ấy Hổ mọc cánh mọi đàng hành thông.
Tử, Phủ gặp mã Dần, Thân,
Phù dư mã ắt thành vận lộ đô.
Nhật, Nguyệt địa, Mã tương cờ:
Thư hùng mã ắt tài cơ sang  giàu
Đồng cung Tôn, Mã gặp nhau,
Ấy là chiết tiễn, ngàn đâu thẳng đường.
Mã ngộ Linh, Hoả miếu cung:
Chiến binh mã ấy vẫy vùng nơi nơi.
Tuấn mã: Khốc, Khách hợp bài,
Ngựa kia có nhạc anh hài lên yên.
Thiên bình ngộ mã chẳng nên:
Phù Thi mã ắt tật nguyền chân tay ...
Chiết túc: Đà, Mã sum vầy.
Tử mã: Tuần, Triệt đêm ngày khảm kha.
Mã kia sao Tuyệt một nhà,
Cùng đồ Mã ấy thật là vô phương.
Thiên hình đóng ở Dần cung (cách Hổ ngậm kiếm)
Mệnh, Thân tại đó uy hùng tướng quân.
Hình, Tướng, Ấn, Binh hợp cùng,
Tài kiếm văn võ vẫy vùng nơi nơi
Khúc, Xương, Thương, Sử hợp bài
Phải phòng tai hoạ bên ngoài bên trong
Đẩu quân, Tử, Phủ thong dong
Ở cung quan lộc trùng trùng phước lai
Đẩu gặp Tồn khá tiến tài
Khốc, Hư lạc hãm miệt mài gian truân
Hoả tai, thuỷ ách lắm lần
Bởi Liêm, Sát, Hoả - Diêu cùng Kỵ, Tham
Thiên, Nguyệt đức, Giải thần tàng
Cùng là Quan, Phúc một làng trừ hung
Thái dương đóng chốn Thuỷ cung (Hợi và Tý)
Gặp Kình hay Kỵ: yểu vong hoặc mù
Hạn gặp thôi cũng âu lo
Hoặc đau đôi mắt, hoặc chờ tóc tang (phần cha)
Đà, La, Địa kiếp chiếu phương,
Gặp Linh tinh, nạn bất tường chẳng sai
Khốc, Hư Tý, Ngọ đồng bài
Tiền bần, hậu phú chứ sai lẽ bàn
Không, Kiếp Tỵ, Hợi đồng sàn
Công danh hoạnh phát phải tường cơ vi
Hồng loan cư Tý khá hay
Văn tinh hội chiếu danh ghi ấu thời
Thiên mã nhập Mệnh ấy ai
Tài năng mẫn tiệp người người ngợi ca
Thiên đồng thủ mệnh ấy là
Đổi thay tính khí khó mà chiều nuông
Tràng sinh, Mã, Hỷ đồng cung
Công danh đắc lộ vẫy vùng một phương
Thiên diêu Tài, Mệnh sinh ương
Không mê cờ bạc cũng phương rượu chè
Vũ Khúc: Thân Mệnh khá hay
Nốt ruồi kín ở thân nay phải tường
Thái âm, Kình ở Ngọ cung
Mệnh viên tại đó uy hùng tướng quân
Thái dương cư Hợi Mệnh, Thân
Gặp Khoa, Quyền, Lộc mười phân vẹn mười
Cơ mệnh miếu vượng đa tài
Tâm từ, tính cấp là người hiền vinh
Khôi, Việt miếu địa trường huynh
Gia đình, xã hội hẳn dành ngôi trên
Liêm trinh lạc hãm ưu phiền
Khoa Quyền ở Ngọ ải phiên trọng thần
Mệnh vô chính diệu "Tam Không"
Nhật, Nguyệt giao chiến dự phần công khanh
Thai mệnh đa học thiều thành (Sao Thai ở Mệnh học giỏi mà mệnh không đạt được)
Mộ hợp Thai, Toạ hiển danh anh tài (Sao Mộ đóng ở Tứ mộ lại gặp Tam thai, Bát toạ)
Liên châu Tam hoá phước lai
Kỵ, Đà, Diêu kế hoạ tai bất thường (3 sao đi liền cung lại gặp Mệnh, như Tam Hoá liên châu)
Phong cáo, Thai phụ giao hoan
Ấy người hưởng ấm thừa quang cõi trần
Xương Khúc đóng ở Mệnh Thân
Là phường tao khác xa gần ngợi ca
Địa kiếp độc thủ ác tà
Liêm, Phủ là hạng quỷ ma bất thường (đóng hãm địa)
Thiên khốc, Địa võng tai ương:
Hoá quyền, thiên khốc lại đường minh danh
Khôi, Xương ở mệnh bậc lành,
Hoả, HÌnh đóng mệnh giữ mình lửa than.
Tả, Hữu đắc địa đồng sàn,
Ấy là được cách thanh nhàn hiển vinh.
Thiên quan, Thiên phúc tu hành,
Tứ Sát vượng địa đã đành minh huy.
Hoá kỵ thi rớt lắm khi,
Dương phùng Kiếp sát học gì cho dương,
Sát, Hinh cô độc tinh ươn,
Quan phủ, Thái tuế đến thường công môn.
Binh, Hình nói chẳng hé răng.
Hãm cung phá, Tuế nói bằng sấm vang.
Tham lương những thích ăn sang.
Diêu kỵ tửu sắc lắm đàng ngã nghiêng.
Đế hãm Mão, Dậu, lại thêm
Sát tinh hội hợp cửa Thiền gởi thân.
Hoặc là Thê, Tử, Phúc cung,
Kiếp, Khong, Sát Kỵ hãm vòng địa ưu.
Mấy người phú quý không toàn,
Bởi sao Nhật, Nguyệt hợp đoàn sát tinh. (tức Diêu, Đà, KHông, Kiếp)
Mấy người khó hiển công danh,
Chỉ vì Nhật, Nguyệt đồng tranh Sửu, Mùi.
Mấy người thu ấn triệt hồi,
Bởi sao Không, Kiếp đứng ngồi nào yên.
Phượng Long: Mão Dầu hai miền,
Bảng vàng có thưở đề tên ở đầu.
Quý, Ân Mùi, Sửu rất màu (Ân quang, Thiên quy đóng Sửu hay Mùi)
Đường mây thẳng bước cao sâu cửu trùng.
Cung quan mừng được Đào, Hồng,
Thiên di tốt kỵ Kiếp, Không lâm vào.
Công danh hẹn tuổi tác cao,
Giáp, Liêm, Giáp sát đoán nào có sai. (Giáp Liêm trinh, Thất sát)
Giáp Bát toạ, Giáp Tam thai,
Thiếu niên cũng dự cát đài nghiêng ngang.
Tả, Hữu, Quan, Phúc đồng sàn,
Chính tinh đắc địa rõ ràng lương y.
Những người niên thiếu danh ghi,
Hồng Loan, Bát toạ ở vì Mệnh cung.
Sông Hao, Tham hội đa dâm;
Thiên Đồng ngộ Quý mười phần thanh tao.
Phú quận, Diêu, Mã hợp vào,
Ấy hạng du đãng ai nào muốn thân.
Giáp Thân, mệnh khá rõ phân,
Nhất là Tử, Phủ dự phần cao sang.
Giáp tả Hữu, Khúc Xương, Nhật Nguyệt;
Lộc, Khoa, Quyền, Khôi Việt cùng gia.
Kỵ Liêm, Phá, Vũ xấu xa
Giáp cung Không, Kiếp, Kình Đà sao nên.
Mão đến Tỵ bóng đen Nguyệt hãm,
Gặp Lương càng bi thảm gian truân.
Kìa ai tiền pú hậu bần,
Bởi chưng Không Kiếp chiếu tuần vận sau.
Còn trước khổ sau giàu bởi số,
Thân mệnh, Thân Tham, Vũ đồng hoà.
Hay gì hãm địa Hoá Khoa,
Gặp Không Kiếp ắt quái tà thạch tinh.
Đắc Tý, Ngọ, Sửu, Thân: Hoá lộc
Hội Kiếp, Không là gốc tàn suy.
Phủ ở Tuất, Tử vi ở Ngọ,
Mệnh công khanh áo đỏ đai vàng.
Mệnh, Thiên, Tài, Lộc, (Quan lộc) bốn phương,
Có Tam Hoá hội rỡ ràng tiếng văn.
Cự, Cơ hợp Khúc, Xương, Tả hữu
Ở Mão cung rạng rỡ công danh:
Tân, Kỷ: Nhất; thứ: Bính, Đinh,
Ngoài ra các tuổi dự vinh đôi phần.
Lin, Dương, Tham, Tướng tý cung,
Cùng là Tứ mộ nổi danh tướng tài.
Nguyệt Dậu, Nhật Tỵ lai triều hợp,
Tuổi Đinh, Tân, Bính, Ất phú viên.
Nhà ai phúc lộc vẹn tuyền,
Bởi sao Tử, phủ chiếu miền tam phương.
đất Thìn, Tuất Âm,Dượng (Nhật, Nguỵêt) đối chiếu,
Hoặc Mùi cung, Mão Hợi hợp nhau,
Cách là vượng địa minh châu,
Cung thềm thoả bước sang giàu chung thân.
Tuất Hợi: Nguyệt, Mão, Thìn thì Nhật,
Ngộ Việt, Khôi, Tả Hữu, Khúc Xương,
Ấy người tước lộc giàu sang,
Chớ nên ắt sát, chớ vương Kỵ, Hình.
Lương, Khúc đóng đồng danh Dần, Ngọ,
Hoặc Ngọ: Lương; Khúc toạ Tý cung
Chức quan ngôi đến đài cương,
Công danh rạng mặt, mọi đường minh danh.
Đất Tứ mộ; Hoả, Linh, Tham, Vũ,
Có uy quyền, chớ ngộ Kình dương.
Thân cung Liêm, Tướng một đường,
Anh hùng vũ dũng ai đương được mình.
Sao Cự tú Tuất, Thìn rất kỵ,
Chững chịu điều thị thị phi phi.
Kiếp, Không, Thái tuế suy vi;
Lộc, Mã ngổTiệt ích gì nữa mong.
Lục Châu thưở lầu hồng phải ách,
Bởi Tuế, Tang, Điếu khách cùng hoà.
Tham, Vũ đóng đất Võng, La (Thìn, Tuất)
Gặp loài Tang, Điếu một nhà càng hung.
Cung, Tỵ, Hợi: Khúc Xương tạo thủ
Trở thành hay nếu có Liêm trinh.
Tuất, Thìn Xương Khúc, Đà, Linh
Sát gia mệnh, hạn gieo mình trầm vong
Liêm, Sát, Tỵ, Kiếp, Không tương hội,
Mệnh an nơi Tỵ, Hợi bềnh bồng.
Tử vi sao quý khá mong,
Tuất Thìn gặp Phá lại giòng hư danh.
Xương Khúc, Phá gặp HÌnh, Kiếp sát,
Chốn Mão, Thìn, Dậu, Tuất lao đao,
Tam Hoá: Hoá lộc đứng đầu
Vào cung Tứ mộ như màu khói mây.
Sao Cựmôn hãm ngay Thìn, Tuất,
Nhưng tuổi Tân gặp Lộc cũng hay.
Mấy người hà tiện xưa nay,
Bởi cung Tài, Phúc gặp rầy Kiếp Không.
Khoa hãm địa ở vòng Mệnh vị,
Nghiệp không thành, danh chỉ như mây.
Lộc ngộ Không Kiếp đồng quy,
Cũng là vô dụng, hoá vi cơ hàn.
Tử vi thủ Mệnh  an  ở Ngọ,
Không sát tinh chức có tam công,
Phải là Đinh. Kỷ sanh năm,
Cùng là Ất, Giáp khá mong được nhờ.
Còn Thiên phủ  Tuất cư mệnh vị,
Hợp cát tinh Giáp, Kỷ sanh nhân
Hoả cục vẹn vẻ mười phân,
Tam công chức chưởng, đành phần chẳng ngoa.
Cung Dần: Lộc; Hợi: Khoa đắc cách
Áng công danh hẹn khách anh tài,
Tham lang; Hoả tú liệt hài,
Mộ cung (Tứ mộ) cũng kẻ quyền oai hơn đời.
Cự Lương gặp Khoa nơi Thìn, Tuất,
Có Mệnh viên ấy thất xinh tươi.
Hỡi ai Giáp, Kỷ mấy người,
Gặp sao Thiên khố tiền rời bạc muôn.
Cự Lương nếu đóng cung Mùi, Sửu,
Lại gia thêm Tứ sát long đong.
Tham, vũ đắc địa khá mong,
Bính, Đinh, Thổ cục ấy giòng giấung,
Mấy người  phú quý nan toàn,
Lưỡng Hao, Hoá kỵ Tài, Quan lâm vào.
Mấy người dự bậc sang giàu,
Hợi, Tý: Tướng ấn lại chầu cát tinh.
Mấy người hiếu sắc hoang tình:
Vĩương Khúc đóng bên mình DiêuY,
Mấy người đông trấn, tây trì:
Phá quân, Thiên Việt hợp bầy Kình dương
Lý Quảng tài lành chẳng phong,
Kình dương, Lực sĩtương phùng Mệnh, Thân.
Nhan Hồi chết giữa niên trung,
Bởi Văn Xương hãm ngộ vòng Thiên thương
Ất, Sửu nhân, Mệnh Dần phương,
Mùi cung: Hạn ngộ Xương, Thương, Dương, Đà.
Việt, Linh, Hình ngộ, Lương Cơ,
Hoặc là Nhật, Nguyệt ắt chờ lôi kinh (bị sét đánh)
Trọng Do mãnh liệt đã đành,
Nhờ Tham, Phá đóng ở mình Thân cung,
Ai đương Hạng Võ anh hùng,
Víao Cự tú, Lương, Đồng hợp xung.
Đồng đóng Mệnh ở Thìn cung,
Lương: Tý, Cự, Tuất hợp trong một miền.
Lại thêm Khoa, Lộc, Hoá Quyền,
Ở cung Xung, chiếu là miên Thiên di.
Tuế ngộ Không Kiếp vận suy,
Cửu tinh Mệnh có Tử vi mới lành.
Hạn hành Vũ khúc, Tham tinh,
Tang, Khốc, Thái tuế lâm Thìn, Tuất cung,
Khuất Nguyên xưa phải trầm vong:
Tuổi Canh nay vẫn đề phòng tử sinh.
Xương Khúc mà gặp Liêm trinh,
Ở cung Tỵ, Hợi tân sinh khó tròn.
Tỵ, Hợi Mệnh ngộ Kiếp Không,
Dẫu rằng đắc địa chết vòng trung niên.
Liêm trinh, Thất sát đồng viên,
Ở cung Tỵ, Hợi chiếu miền Thiên thương,
Đặng Thông đói suốt năm trường,
Hạn hành phải sợ tai ương đến mình.
Liêm, Xương, Đà, Vũ đồng danh,
Tuổi Tân, Nhâm, Kỷ ắt dành hoạ tai.
Kình dương, Kỵ, Hoả một bài,
Hãm mà thủ mệnh thật loài ác tinh.
Khúc Xương Mùi, Sửu hợp thành,
Nếu không cát diệu hữu danh vô dùng.
Phá quân, Hình gặp Khúc Xương:
Tuất, Thìn, Mão, Dậu là phường lao đao.
Sát, Phá, Liêm, Tham lâm vào,
Kình, đà, Kỵ ấy tránh nào bạo hung.
Linh, Hoả, Thương, Sứ, Kiếp, Không
Chuyên đường tác hoạ trùng trùng hải kinh.
Ngọ cung Tam Hoá hợp Kình,
Người sinh Bính, Mậu, biên đình nổi  danh.
Lộc cư Nô bộc bực mình
Đông Tây xuôi ngược mới sinh tiền tài,
Dương Linh toạ thủ mệnh ai,
Lại gặp Bạch hổ hoạ tai dao hình.
Mện Vô chính diệu bất minh,
Phụ Bật gia thủ đơn mình ly tống,
Kỵ, Hình, Thất sát tương phùng,
Thiếu niên yểu chiết như giòng Nhân Uyên.
Hạn phùng Diêu, Hổ ưu phiền,
Những loài ác thú chớ nên đến gần.
Hạn hành Cự; Kỵ hung thần,
Phái phòng những chón giang tân mới lành.
Hông, đào, Không, Kiếp đồng danh,
Áy phường yểu tử đã thành một hai.
Kỵ, Đà,Thái tuế hợp bài,
Cảnh đời nào được mấy người thung dung.
Sao Ân, Quy hợp Khôi cùng,
Ở vào Thân Mệnh bảng rồng đề danh.
Khôi Việc hội gặp Khoa tinh,
Chẳng phùng  Không ắt nên danh dễ dàng.
Tham lang, Bạch hổ một dàng,
Tuất, Thìn tuổi ấy sơn lâm lánh đường.
Hãm cung Tang, Tuế, Cơ, Lương,
Ấy người kém phúc, vợ con biếng chiều.
Tuế, Đà, Cự, Kỵ vận nghèo,
Một thân xuống thác lên đèo chẳng yên.
Phù, Hình, Không Kiếp đớn hèn,
Kẻ thù người oán phải nên giữ mình.
Khốc, Hư, Tang Mã chẳng lành,
Hại người, hại của phần đành tai ương.
Kiếp, Không, Hình, Kỵ, Đà, Dương
Gian nan bệnh tật mọi đường khảm kha,
Hoả, Linh long, Mộc một nhà,
Lành mình lửa cháy cùng là nước sôi.
Dậu cung Hình, Tuế cùng ngồi,
Tai bay vạ gió nào người gây ra,
Dần, Thân: sát, Kỵ trùng gia,
Thường chiêu mạ nhục thật là gian truân.
Cơ Lương Lộc Mã đồng cung,
Phú kham địch quốc của dùng kết đâu.
Ngôi cao chức trọng công hầu,
Ngọ cung Thất sát lại chầu cát tinh.
Quyền cao trọng trấn biên đình,
Tử Đồng Lương, Vũ miếu tinh hợp cùng.
Ân, Quý, Khôi Việt, Liêm, Hồng,
Trai cận cửu trùng, gái tắc cung phi.
Hồng, Khôi, Xương, Liêm phù trì,
Sân Rồng dấn bước tên ghi cữu trùng.
Nếu Kỵ giam ở Tý cung,
Làm nghề thuật sĩ ung dung nuôi mình.
Thiên, Nguyệt đức ngộ Đào tinh,
Trai lấy vợ đẹp, gái lành chồng sang.
Việt Khôi, Quyền Lộc khá bàn,
Trong nhà bậc trưởng, ra đàng bậc trên.
Sát phùng phù, Hổ sao nên,
Dã tràng thưở ưu phiền ngục trung.
Dần, Thân, Tham Ngộ Văn Xương,
Vận ông Đồng Phú, Hân Hoàng đem lưu.
Mệnh, Điền: Tuần, Triệt đương đầu,
Tư cơ cha mẹ khô cầu khó mong.
Phủ, Đà, Tuế đóng Tỵ cung,
Thiềm ngôn. loạn ngữ nói rông tháng ngày.
Bệnh phù, Thái tuế dỡ thay,
Ở cung Tứ mộ hợp bày thiên thương
Không Kiếp đóng ở Mệnh phương,
Triệt, Tuần án ngữ tránh đường hoạ tai.
Đào, Hồng, Diêu, Hỉ trong ngoài,
Lại gia Binh, Tướng: gái tai hoang tàng.

Thân hung hạn sợ muôn vàn,
Tiền đầu hãm hại một đoàn hung tinh.
Tất sát là loại đáng kinh,
Hãm địa ngộ phải lưu Kình sợ thay.
Dương, Đà, Thất sát khá hay,
Chiếu và Thân, Mệnh tháng ngày khổ đau.
Cự Tham Phá Kỵ gặp nhau,
Bên mình hoạ đến dễ hầu tránh ru,
Tham, Liêm: Tỵ Hợi ngục tù,
Dần, Thân: Tham hội Xương lo tung đình,
Phá phùng Mão, Dậu khá kinh,
Gặp sao Nguyệt đức phúc lành lại qua.
Hình, Kình cư Ngọ đồng gia
Sát, Kiếp lai chiếu ắt là ngục trung,
Mệnh, Đào, Thân lại Hồng Loan;
Hạn gặp Tuế, Kiếp, Phụng hoàng rẽ duyên.
Thanh long, Thai, Hỉ hợp miền,
Vợ ắt thai nghén khá xem phúc nhà.
Kình dương, Hoa cái Ngộ Đà,
Hạn hành năm ấy đậu hoa phải phòng.
Vũ, Cơ: Lộc, Mã, Hỉ, Hồng
Hôn nhân vận ấy đèo bồng thất gia.
Lương, Phục, Vũ ở toà Ngọ vị,
Hạn gặp thì chức trị quản binnh.
Đạu cung Thái tuế, Thiên hình,
Phải phòng vận hạn dễ sinh gông cùm.
Chơi bời du thuỷ, du sơn,
Thiên di gặp Mã hợp chàng Đà la.
Thìn Tuất, Tất sát xem qua,
Kinh, Hình hội ngộ ắt là đảo điên.
Tiểu  hạn Cự, Vũ, Hoá Quyền,
Hoặc Mộ (sao Mộ) Tả Hữu ấy miền thăng vinh.
Việt Khôi, Long Phượng Văn tinh,
Vào thi ắt hẳn bẻ cành quế hoa,
Sát gặp Tồn, Tử đoán ra,
Lại sao Kỵ đóng ắt là tối tăm.
Thiên lương ngộ hoả chớ lầm,
Hại người tổn vật mấy lần hoạ sinh.
Thái dương hãm ngộ hung tinh,
Nếu không kiện tụng, thôi đành tóc tang (bố chết)
Quyền, Hao, Không Kiết chớ màng,
Kẻ trên biếm loại khỏi đàng công danh.
Linh phùng Sát, Phá hạn hành:
Văn Vương xưa cũng giam mình ngục trung.
Nguyệt hãm, Đà; Hổ Tuế xung,
Hãi thay điềm mẹ thoát vòng trần gian,
Xét xem các lẽ luận bàn,
Mệnh, Thân, Vận hạn mọi đàng cho minh.

Lê Quang Đạo: ĐT 0983225079
Mail: lequang306@gmail.com
Nhận xem số ử vi, xem quẻ dịch, xem ngày và tư vấn phong thủy! 
 Khách ở xa có thể chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng hoặc cũng có thể chuyển bằng thẻ điện thoại