Thứ Hai, 26 tháng 3, 2018

Tìm hiểu lịch sử

Tìm hiểu lịch sử:
Trong việc bành trướng lãnh thổ vào phương Nam vào thời "CÁC CHÚA NGUYỄN "
Đa số các dân tộc/ vương quốc lân cận đều bị các Chúa thu phục một cách tâm phục khẩu phục.
Họ tự quy phục và nhờ Chúa đặt quyền bảo hộ lên lãnh thổ của họ.
Một số nhớ công Chúa dẹp giặc dùm nên dâng đất trả ơn như chuyện tổng trấn Hà Tiên - Ông Mạc Cửu.
Một số thì xua binh gây hấn với Đàng Trong cũng bị Chúa thu phục và tự động cắt đất dâng Chúa đầu hàng.
Các Chúa chưa bao giờ tấn công ra Bắc Hà mà chỉ đánh trong thế tự vệ, tập trung lo xây dựng bờ cõi, mở rộng lãnh thổ về Phương Nam.
Nhà sử học Trần Trọng Kim trong tác phẩm Việt Nam sử lược ( Chương VI: Công việc họ Nguyễn làm ở miền Nam) đã viết : ” Còn những công việc họ Nguyễn làm ở phía Nam quan trọng cho nước Nam ta hơn cả, là việc mở mang bờ cõi, khiến cho nước lớn lên, người nhiều ra, và nhất là chiêu mộ những người nghèo khổ trong nước đưa đi khai hóa những đất phì nhiêu bỏ hoang, làm thành ra Nam Việt bây giờ phồn phú hơn cả mọi nơi, ấy là cái công họ Nguyễn với nước Nam thật là to lớn lắm vậy”.
Đầu thế kỷ 17, xứ Quảng Nam (gồm cả Quảng Ngãi và Quy Nhơn) là vùng đất cực nam của Đại Việt giáp với Chiêm Thành. Năm Tân Hợi (1611) chúa Nguyễn Hoàng đánh Chiêm Thành lấy đất lập ra phủ Phú Yên, chia ra làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa.
Năm Quý Tỵ 1653, vua nước Chiêm là Bà Thấm sang quấy nhiễu ở đất Phú Yên, chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần sai quan cai cơ là Hùng Lộc sang đánh. Bà Thấm xin hàng. Chúa Nguyễn lấy đất đặt làm phủ Diên Khánh ( Khánh Hòa bây giờ).
Năm Quý Dậu 1693, vua Chiêm là Bà Tranh bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng binh là Nguyễn Hữu Cảnh đem quân đi đánh, bắt Bà Tranh đem về Phú Xuân, đổi đất Chiêm Thành làm Thuận phủ, qua năm 1697 lại đổi làm phủ Bình Thuận, lấy đất Phan Rí, Phan Rang làm huyện Yên Phúc và huyện Hòa Đa. Nước Chiêm Thành bị diệt.
Năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh làm Khâm sai Kinh lược sứ, vào nam lập phủ Gia Định gồm hai huyện : huyện Phước Long ( Đồng Nai) dựng dinh Trấn Biên và huyện Tân Bình (Sài Gòn) dựng dinh Phiên Trấn (11); lại chiêu mộ những kẻ lưu dân từ Quảng Bình trở vào để lập ra thôn xã và tha thuế để khuyến khích khai khẩn ruộng đất.
Những người Tàu di dân ở đất Trấn Biên thì lập làm xã Thanh Hà, những người ở đất Phiên Trấn thì lập làm xã Minh Hương. Những người Tàu này đều thuộc sổ bộ dân nước ta. Phủ Gia Định khi ấy dân số ước chừng bốn vạn hộ ( 20 vạn người).
Năm 1708, Mạc Cửu cai quản đất Hà Tiên (kể cả Phú Quốc) xin thuộc về Đàng Trong. Chúa Nguyễn chấp thuận, lập ra trấn Hà Tiên, để Mạc Cửu làm Tổng binh giữ đất ấy.
Năm 1732, vua Sâtha của Chân Lạp xin cắt hai vùng Peam Mesar (Mỹ Tho) và Longhôr (Vĩnh Long) dâng chúa Nguyễn Phúc Trú (Thái) để tạ ơn dẹp loạn. Chúa Nguyễn đặt dinh Long Hồ và lập châu Định Viễn.
Năm 1735, Mạc Cửu qua đời, con là Mạc Thiên Tứ được chúa Nguyễn cho nối chức, tiếp tục mở rộng Hà Tiên đến Rạch Giá và Cà Mau. Năm 1757, chúa Nguyễn đặt ra đạo Kiên Giang (Rạch Giá) và đạo Long Xuyên (Cà Mau) đều thuộc về Trấn Hà Tiên.
Năm 1753, vua Chân Lạp là Chey Chêtthâ V (tức Nặc Nguyên) bị chúa Nguyễn Phúc Khoát sai Nguyễn Cư Trinh cử binh phạt tội vì thông sứ với chúa Trịnh và ức hiếp người Côn Man (dân Chămpa lưu vong). Năm 1755 vua Chân Lạp bị đánh thua, bỏ thành Nam Vang chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ giúp tâu với chúa Nguyễn xin nộp hai vùng đất Tầm Bôn và Lôi Lạp ( Tân An và Gò Công) để tạ tội. Chúa Nguyễn cho nhập hai vùng đất ấy vào châu Định Viễn.
Năm 1759, Nặc Nguyên mất, chú là Nặc Nhuận xin dâng hai vùng đất Trà Vinh và Sóc Trăng để được công nhận là vua Chân Lạp. Đến đây thì toàn bộ bờ biển hình chữ S của nước ta đã định hình.
Năm 1760, Nặc Nhuận bị rể là Nặc Hinh giết chết. Quan tổng suất triều Nguyễn là Trương Phúc Du đem quân sang đánh. Nặc Hinh thua chạy và bị giết. Con Nặc Nhuận là Nặc Tôn (Ang Tong) được lên nối ngôi vua Chân Lạp, xin dâng đất Tầm Phong Long ( Sa Đéc) để tạ ơn. Đến đây thì quá trình Nam tiến kể như hoàn tất.
Nặc Tôn lại dâng năm phủ là Kampot, Kompong Som, Chal Chun, Bantey Méas, và Raung Veng để tạ ơn Mạc Thiên Tứ. Chúa Nguyễn Phúc Khoát cho nhập tất cả vào trấn Hà Tiên. Năm 1841, vua Thiệu Trị trả năm phủ ấy lại cho Chân Lạp, ngày nay là hai tỉnh Kampot và Tà Keo.
Nhà thơ Nguyễn Duy đã viết những dòng ray rứt : ” Nhà Nguyễn đã có công lao rất lớn đối với nước Việt Nam, đó là một sự thật hiển nhiên, vậy mà không hiểu tại sao và từ lúc nào, lại bị bóp méo đến biến dạng, bị sai lệch đi trong cái nhìn chính thống, bị ruồng bỏ nhiều bài vị tôn kính, bị xóa tên đường phố nhiều vua chúa kiệt xuất."
ST