Sau khi thời Xuân Thu đã đi qua được 2500 năm, ngoại
trừ Phật gia không có học phái nào có thể ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa Trung
Hoa bằng Nho gia và Đạo gia. Bởi vậy, ông tổ của 3 gia phái này là Phật Thích
Ca Mâu Ni, Khổng Tử và Lão Tử được người đời sau ngưỡng mộ và sùng bái.
Thật trùng hợp ở chỗ, ngày tháng 3 vị ấy ra đời chênh
nhau không quá 20 năm. Theo góc nhìn lịch sử, thì 3 vị ấy là người của cùng một
thời đại. Năm 571 Trước công nguyên, ngày 15 tháng 2 Lão Tử giáng sinh tại nước
Sở, huyện Khổ (nay là huyện Lộc Ấp, Hà Nam). 5 năm sau, ngày 8 tháng 4 năm 566
Trước công nguyên Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh ở Kim Ni Bạc Nhĩ. 15 năm sau,
vào ngày 27 tháng 8 năm 551 Trước công nguyên, Khổng Tử ra đời tại Khúc Phụ,
tỉnh Sơn Đông.
3 vị Thánh giả giáng sinh vào cùng một thời đại, ấy là
sự trùng hợp của lịch sử hay là Ý Trời đã an bài như vậy?
Lão Tử
“Lão Tử” tên thật là Lý Nhĩ, tên tự là Bá Dương. “Lão”
là ý gọi người tuổi cao Đức lớn. “Tử” là cách gọi bày tỏ lòng tôn kính đối với
người khác. Tương truyền Lão Tử bẩm sinh có khí chất phi phàm, am hiểu chuyện
xưa, giỏi việc lễ chế, từng đảm nhiệm chức quan “Thủ tàng thất sử” (tương đương
với giám đốc thư viện quốc gia hoặc là giám đốc viện bảo tàng quốc gia) và chức
Trụ hạ sử (tương đương với chức quan Ngự sử thời Tần, Hán). Lão Tử ở lại Lạc
Dương nước Chu thật lâu, thấy rõ sự suy sụp của nhà Chu.
Năm 500 trước công nguyên, trong hoàng tộc nhà Chu
phát sinh cuộc nội chiến tranh giành ngôi vị, Lão Tử bị liên lụy và bị bãi
quan. Lão Tử cảm thấy nhân thế hiểm ác, bèn rời đi. Ông lưu lạc khắp 4 phương trời
nhưng không để ai biết danh tính của mình.
Ngày 1 tháng 9 năm 478 trước công nguyên, Lão Tử 93
tuổi đi về nước Tần. Lúc đi qua cửa Hàm Cốc, quan Lệnh tên là Doãn Hỷ ở đó xem
bói đã biết trước là sẽ có một Thần nhân đi qua đây, bèn sai người quét dọn sạch
sẽ 40 dặm đường để nghênh đón. Quả nhiên Lão Tử tới. Doãn Hỷ nói: “Tiên sinh
Ngài muốn ẩn cư, sau này không còn được nghe Ngài dạy bảo nữa, kính xin tiên
sinh viết sách để truyền lại cho hậu thế!”. Lão Tử tại Trung Nguyên chưa
từng truyền thụ lại điều gì. Ông biết Doãn Hỷ trong mệnh đã định là sẽ đắc Đạo,
bèn tạm dừng lại nơi này một thời gian ngắn, viết lại cuốn sách nổi tiếng ngàn
đời: “Đạo Đức kinh”. Sau đó, Lão Tử ra khỏi cửa Hàm Cốc đi về phía Tây,
vượt qua vùng Lưu Sa… Lưu Sa là chỉ vùng sa mạc lớn ở Tân Cương. Không ai biết
cuối cùng ông đã đi về nơi đâu.
Khổng Tử từng đến kinh đô nước Chu,
thỉnh giáo Lão Tử về Lễ chế. Một ngày, Khổng Tử cưỡi một chiếc xe cũ do trâu
kéo, lắc la lắc lư tiến vào thành Lạc Dương – kinh đô của nước Chu. Ông đi lần này mục đích là để tham quan “Các nguyên
tắc trị nước mà các vị Tiên vương đã dùng”, khảo sát “Nguồn gốc của Lễ Nhạc”,
học tập “Các quy phạm đạo đức”, bởi vậy việc ông tới viếng thăm Lão Tử, vị quan
tinh thông chế độ Lễ nghi và quản lý thư viện hoàng gia, ấy là an bài tối quan
trọng [của Thiên thượng]. Khổng Tử sau khi hoàn thành việc khảo sát lần đó, đã
nói một câu lưu truyền đời sau rằng: “Trong số rất nhiều học thuyết trên
đời, ta chọn theo [học thuyết của] nhà Chu”.
Chế độ Lễ nghi thời đại nhà Chu là phỏng theo Lễ chế thời đại nhà Hạ và nhà
Thương làm cơ sở mà đặt định ra, và Khổng Tử chủ trương sử dụng Lễ chế của thời
đại nhà Chu. Có thể thấy chuyến đi lần ấy của ông thu được ích lợi không hề
nhỏ.
Khổng Tử bái kiến Lão Tử. Lão Tử hỏi Khổng Tử đọc sách
gì, ông trả lời là đọc “Chu Dịch”, và Thánh nhân đều đọc sách này. Lão
tử nói: “Thánh nhân đọc sách này thì được, còn ông vì sao cần phải đọc nó?
Tinh hoa của quyển sách này là gì?”.
Khổng Tử trả lời: “Tinh hoa của nó là tuyên dương
Nhân Nghĩa“.
Lão Tử nói: “Cái gọi là nhân nghĩa, đó là một thứ
mê hoặc lòng người, giống như như muỗi rận ban đêm cắn người, chỉ có thể làm
người ta thêm hỗn loạn và phiền não mà thôi. Ông xem, con chim Thiên nga kia
không cần tắm rửa mà lông vũ tự nhiên vẫn trắng như tuyết, Quạ đen hàng ngày
không nhuộm lông mà tự nhiên vẫn đen. Trời vốn là cao, đất vốn là dày, mặt trời
mặt trăng từ trước tới nay đã phát ra ánh sáng rực rỡ, tinh thần từ trước tới
nay chính là đã được an bài có trật tự, cây cỏ từ lúc sinh ra thì đã khác nhau.
Nếu như ông tu Đạo, vậy cũng thuận theo quy luật tồn tại của tự nhiên, tự nhiên
là có thể đắc Đạo. Tuyên dương những thứ nhân nghĩa để làm gì đây? Chẳng phải
điều đó cũng đáng tức cười như việc vừa đánh trống vừa đi tìm một con dê thất
lạc hay sao?”
Lão Tử lại hỏi Khổng Tử: “Ông cho rằng tự mình đắc
Đạo rồi chưa?”.
Khổng Tử nói: “Tôi đã tìm cầu 27 năm rồi, vẫn chưa
đắc được”.
Lão Tử nói: “Nếu như Đạo là một thứ hữu hình có thể
tìm kiếm và dâng hiến cho con người, thì người ta sẽ tranh giành nó đem dâng
tặng cho quân vương. Nếu như Đạo có thể đem tặng cho người khác, thì người ta
sẽ đem tặng nó cho người thân. Nếu như Đạo có thể giảng rõ ra được, người ta sẽ
đem nó giảng giải cho anh em của mình. Nếu như Đạo có thể truyền thụ cho người
khác, thì người ta đều sẽ tranh nhau truyền nó cho con cái mình. Song những
chuyện như thế là không thể được. Nguyên nhất rất đơn giản, Đạo ấy chính là thứ
mà một người bình thường không thể nhận thức một cách chính xác được, Đạo tuyệt
đối sẽ không thể nhập vào tâm của người thường được”.
Khổng Tử nói: “Tôi nghiên cứu ‘Thi Kinh’, ‘Thượng
Thư’, ‘Lễ’, ‘Nhạc’, ‘Dịch’, ‘Xuân Thu’, giảng nói đạo lý trị quốc của các vị
tiên vương, hiểu rõ con đường thành công của Chu Công, Triệu Công. Tôi đã lấy
đó để bái kiến 70 quân vương, nhưng họ đều không chọn dùng chủ trương của tôi.
Xem ra người ta thật là khó thuyết phục được!”.
Lão Tử nói: “Ông nói ‘Lục Nghệ’ ấy tất cả đều là
những thứ xưa cũ của thời đại các tiên vương, ông nói những thứ đó để làm gì
đây? Thành tựu tu học mà ông đạt được hôm nay cũng đều là những thứ xưa cũ
rồi”.
Khổng Tử thỉnh giáo xong Lễ chế nhà Chu, liền quyết
tâm trở về nước Lỗ khôi phục lại nguyên xi Lễ nghi của nhà Chu.
Lão Tử đối với việc này vẫn bảo lưu ý kiến. Bởi vì Lễ tuy là cần phải có, nhưng
muốn khôi phục toàn diện Lễ nghi nhà Chu, e
rằng không thể làm được. Thời thế thay đổi, chút Lễ nghi nhà Chu
ấy cũng không thích hợp với tình huống đương thời nữa. Vì vậy Lão Tử nói với
Khổng Tử: “Ông theo lời những người đó, xương cốt của họ đều đã mục nát cả
rồi, chỉ là những lời bàn luận của họ là còn tồn tại mà thôi. Hơn nữa quân tử
gặp được thời cơ chính trị thì liền theo chính, thời cơ không thích hợp thì
cũng như cây cỏ bồng kia gặp sao yên vậy. Tôi nghe nói: Người giỏi kinh doanh
đem cất giấu của cải hàng hóa, không cho người khác trông thấy, mặc dù giàu có
nhưng dường như cái gì cũng không có. Người quân tử Đức cao thường bề ngoài
cũng giống như người ngu độn, không để lộ chân tướng ra ngoài. Ông cần phải vứt
bỏ tâm kiêu ngạo và dục vọng, vứt bỏ tâm thái và thần sắc mà ông đang có kia
đi, vứt bỏ chí hướng quá truy cầu kia đi, bởi vì những thứ này đối với ông
chẳng có chỗ nào tốt cả. Đó chính là những gì mà tôi muốn cho ông biết”.
Khổng Tử không biết nên trả lời ra sao, nhưng vẫn
không buông bỏ chí hướng của mình: Đại trượng phu “biết rõ những việc không thể
làm mà vẫn làm”. Tham quan xong các địa phương khác, Khổng Tử cáo từ Lão Tử,
mang theo trong lòng những nỗi niềm phấn khởi xen lẫn với thất vọng mà rời kinh
đô Lạc Dương của nhà Chu. Phấn khởi là vì học
hỏi lễ giáo đã thành công, thất vọng là vì những lời khuyến cáo của Lão Tử.
Phía sau lưng ông, một bia đá được dựng lên ghi lại mấy chữ: “Khổng Tử đến đất Chu học hỏi lễ nghi”.
Khổng Tử trở về, 3 ngày không nói chuyện. Tử Cống thấy
kỳ lạ, bèn hỏi thầy chuyện là thế nào. Khổng Tử nói: “Chim, ta biết nó có
thể bay; cá, ta biết nó có thể bơi; thú, ta biết nó có thể chạy. Có thể chạy
thì ta có thể dùng lưới giăng bắt nó, có thể bơi thì ta có thể dùng dây tơ mà
câu, có thể bay thì ta có thể dùng cung tên bắn được nó. Còn như con rồng, ta
không biết nó làm sao có thể lợi dụng sức gió mà bay tới tận trời cao. Ta hôm
nay gặp mặt Lão Tử, ông ấy cũng như con rồng kia thâm sâu không thể đo lường
nổi!”.
Đó chính là sự khác nhau cơ bản giữa một Giác Giả độ
nhân và một nhà tư tưởng của nhân gian. Cái gọi là “Đạo bất đồng bất tương vi
mưu” (Tạm dịch: không cùng một trình độ tu Đạo thì tâm cảnh cũng khác nhau xa),
chính là tình huống như thế này. Đạo lý của Lão Tử vi diệu khó có thể hiểu nổi,
bởi vì ấy là lời giáo huấn của Thần. Lời của Khổng Tử chẳng qua chỉ là học vấn
của con người, là quy phạm đạo đức và hành vi của loài người mà thôi.
Khổng Tử
Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tên tự là Trọng Ni,
sinh vào nước Lỗ năm 551 trước công nguyên.
Khi lớn lên, Khổng Tử từng làm một chức quan nhỏ
chuyên quản lý kho tàng, xuất nạp tiền lương công bằng chuẩn xác. Ông cũng từng
đảm nhiệm chức quan nhỏ chuyên quản lý nông trường chăn nuôi, súc vật sinh
trưởng rất tốt. Nhờ vậy ông được thăng chức lên làm quan Tư không, chuyên quản
lý việc xây dựng công trình. Khổng Tử thân cao 9 xích 6 tấc (xích là đơn vị đo
lường cổ Trung Hoa = 1/3 mét), mọi người đều gọi ông là “Người cao lớn”, cho
rằng ông là người phi thường.
Sau khi Khổng Tử tới đất Chu
học hỏi Lễ nghi trở về lại nước Lỗ, các học trò theo ông học tập dần dần đông
lên. Có thể nói Khổng Tử là người thầy tư nhân chuyên thu nhận học trò đầu tiên
trong lịch sử giáo dục Trung Quốc. Trước thời ông, trường học hoàn toàn là của
nhà nước. Khổng Tử sáng lập ra trường học tư, thu nhận nhiều đồ đệ, đưa giáo
dục mở rộng cho bình dân, đem tri thức văn hóa truyền bá cho dân gian, có cống
hiến thật to lớn đối với giáo dục thời cổ đại.
Lúc Khổng Tử 35 tuổi tới nước Tề. Tề Cảnh Công thỉnh
giáo Khổng Tử về đạo trị nước. Khổng Tử nói: “Quân vương cần phải có phong
thái của quân vương, bề tôi cần phải có phong thái của bề tôi, cha cần có phong
thái của người cha, con cần có phong thái của con”. Cảnh Công nghe xong
nói: “Cực kỳ đúng! Nếu quân vương không ra quân vương, bề tôi không ra bề
tôi, cha không ra cha, con không ra con, thì cho dù có rất nhiều lương thực, ta
làm sao có thể ăn được đây!”. Ngày khác Cảnh Công lại thỉnh giáo Khổng Tử
về Đạo lý trị quốc, Khổng Tử nói: “Quản lý quốc gia cần nhất là tiết kiệm
chi tiêu, ngăn chặn lãng phí từ gốc rễ”. Cảnh Công nghe xong rất phấn khởi,
định đem đất Ni Khê phong thưởng cho Khổng Tử.
Yến Anh khuyên can nói: “Loại nhà Nho này, có thể
nói đạo lý, không thể dùng pháp luật mà ràng buộc được họ. Họ cao ngạo tùy
hứng, tự cho mình là đúng. Họ coi trọng tang lễ, dốc hết tình cảm bi thương, an
táng trọng thể mà không ngại bị khuynh gia bại sản. Họ đi khắp nơi du thuyết,
cầu xin quan lộc. Bởi vậy không thể dùng họ để quản lý quốc gia được. Hiện nay
Khổng Tử nói về dung mạo phục sức, đặt định lễ tiết thượng triều hạ triều rườm
rà, chính là mấy đời người cũng học tập không xong được, cả đời cũng làm không được
thông. Nếu Ngài muốn đem những thứ này để thay đổi phong tục của nước Tề, e
rằng không phải là biện pháp tốt để dẫn dắt trăm họ”.
Yến Anh khuyên can có hiệu quả. Sau đó Tề Cảnh Công
tiếp đãi Khổng Tử rất có lễ độ, nhưng không còn hỏi về những vấn đề có liên
quan đến Lễ nữa. Trong số các quan đại phu nước Tề có người muốn mưu hại Khổng
Tử. Cảnh Công nói với Khổng Tử: “Ta đã già rồi, không thể bổ nhiệm quan tước
cho ông được nữa”. Thế là Khổng Tử rời Tề trở về Lỗ.
Tại nước Lỗ, Khổng Tử tuy về mặt chính trị có rất
nhiều thành tích, cũng từng làm một vài chuyện lớn, nhưng con đường làm quan
không hề trôi chảy. Có lần nhà Vua chủ trì một đại lễ tế Trời, quan đại phu Tam
Hoàn cố tình không chia cho ông một khối thịt tế nào. Đó là loại hình phạt
nghiêm khắc nhất trong Chế độ Lễ nghi của nhà Chu.
Khổng Tử biết con đường làm quan của mình không có hy vọng gì, bèn rời quê nhà
đi dạy học bốn phương trời, tuyên truyền những chủ trương chính trị của mình.
Lúc đó Khổng Tử khoảng chừng 50 tuổi. Ông không nề hà
khổ nhọc, dùng 13 năm để dẫn dắt học trò chu du các nước, đi du thuyết khắp
nơi. Nhưng các nước đều không chấp thuận chủ trương của ông. Năm 63 tuổi, Khổng
Tử trở lại nước Lỗ. Cuối cùng nước Lỗ cũng không trọng dụng Khổng Tử, mà Khổng
Tử cũng không muốn ra làm quan nữa.
Tuy là một người tuổi đã gần đất xa trời, nhưng ngọn
lửa tư tưởng trong 9 năm cuối đời đã phát huy được thành tựu rực rỡ. Khổng Tử
dốc lòng thu nhận học trò, biên soạn điển tịch, tạo thành một hệ thống tư tưởng
Nho học trong 9 năm cuối đời mình.
Thời đại Khổng Tử, nhà Chu
đã suy, Lễ nhạc đã phôi pha, ‘Thi’, ‘Thư’ cũng không còn toàn vẹn nữa. Khổng Tử
tìm tòi nghiên cứu chế độ lễ nghi của 3 thời đại Hạ, Thương, Tây Chu, biên định
“Thượng thư”, “Lễ ký”. Khổng Tử sau khi từ nước Vệ trở về nước Lỗ, thì bắt đầu
đính chính lại Thi Nhạc, khiến cho “Nhã”, “Tụng” đều khôi phục lại được nhạc
điệu ban đầu. “Kinh Thi” vốn có 3000 bài được truyền lại từ thời cổ đại. Đến
thời Khổng Tử, ông cắt bỏ những chỗ trùng lặp, lựa chọn trong đó những bài phù
hợp cho việc dạy bảo Lễ Nghĩa.
Lúc về già Khổng Tử thích nghiên cứu “Chu Dịch”. Ông
giải thích về “Thoán từ”, “Hào từ”, “Quái”, “Văn ngôn”. Khổng Tử đọc Chu Dịch
rất siêng năng, đến nỗi sợi dây da trâu buộc sách đã nhiều lần bị mòn đứt. Ông
nói: “ Nếu trời cho ta sống lâu thêm vài năm nữa, ta có thể nắm vững và giải
thích rõ ràng nội dung và đạo lý trong từng câu văn của “Chu
Dịch”.
Khổng Tử nói: “Quân tử lo lắng nhất chính là sau
khi chết không lưu lại được tiếng thơm. Chủ trương của ta không thể thực thi,
ta lấy gì để cống hiến cho xã hội và lưu danh hậu thế đây?”. Bèn căn cứ vào
các sách lịch sử của nước Lỗ biên soạn ra bộ “Xuân Thu”, trên từ năm Lỗ Ân Công
đầu tiên (722 TCN) xuống tới năm Lỗ Ai Công thứ 14 (481 TCN), tổng cộng 12 đời
vua nước Lỗ. Lấy nước Lỗ làm trung tâm để biên soạn, tôn thờ Hoàng tộc nhà Chu
làm chính thống, lấy sự tích Ân Thương làm tham khảo, mở rộng và phát triển
truyền thống các thời đại từ đời Hạ, Thương, Chu, lời văn súc tích uyên thâm.
Cuối cùng Khổng Tử biên soạn xong “Lục Nghệ” là Thi,
Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân thu. Khổng Tử dùng Thi, Thư, Lễ, Nhạc làm tài liệu
giảng dạy học trò, đến học có ước chừng tới 3000 đệ tử, trong đó hiền nhân quân
tử có 72 người. Chưa kể nhiều học trò chưa chính thức nhập tịch ở khắp nơi nữa.
Lúc Khổng Tử lâm bệnh, Tử Cống đến thăm viếng thầy.
Khổng Tử thở dài, nói ngay: “Thái Sơn sắp đổ rồi, rường cột sắp gãy rồi,
người trí tuệ sắp chết rồi!”. Nước mắt chảy dài, nói với Tử Cống: “Thiên
hạ từ lâu đã mất đi đạo lý thông thường, không có ai tiếp nhận chủ trương của
ta cả …”. 7 ngày sau Khổng Tử qua đời, hưởng thọ 73 tuổi, nhằm vào ngày Kỷ
Sửu, tháng 4 năm 479 trước công nguyên.
Sách “Luận Ngữ” chính là do đệ tử của Khổng Tử
căn cứ theo lời nói và việc làm của ông mà biên soạn thành. Đó là tư liệu trực
tiếp nhất để cho chúng ta hôm nay hiểu biết về Khổng Tử. Khổng Tử cho người ta
biết thế nào là “Trung dung”, vì đời sau mà đặt định ra quy phạm làm người theo
“Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”. Ảnh hưởng của ông đối với văn hóa Trung Quốc và cả
vùng Đông Nam Á là rất to lớn.
Tư Mã Thiên nói: “Trong kinh “Thi” có câu nói như
thế này: “Cái giống như núi cao khiến người ta chiêm ngưỡng, cái giống như đại
Đạo khiến người ta tuân theo”. Từ xưa tới nay trong thiên hạ, Quân Vương và
người tài đức thì có cũng nhiều. Họ khi đang còn sống đều vinh hoa quý hiển,
nhưng chết đi rồi thì chẳng còn lại chút gì. Khổng Tử là một người bình dân,
nhưng những người đọc sách đều tôn ông làm thầy. Từ Thiên tử, Vương Hầu đến
nhân dân cả nước, những ai nói về “Lục Nghệ” thì đều xem học thuyết ấy của
Khổng Tử là chuẩn tắc cao nhất. Có thể nói Khổng Tử là một Thánh nhân chí cao
vô thượng”.
Phật Thích Ca Mâu Ni
Trong lúc Đại Đạo Trung Quốc đang được lưu truyền tại
mảnh đất Thần Châu, thì đồng thời tại Ấn Độ – cũng là quốc gia có nền văn minh
lâu đời tại phương Đông – Phật Pháp mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã được truyền
rộng.
Thích Ca Mâu Ni giáng sinh tại Kapilavastu (Ca tỳ La
vệ), một đất nước tại vùng đất Ấn Độ xưa kia. Mẹ của ông là Hoàng hậu Mayadevi
(hoàng hậu Ma Da) sinh hạ ông tại Lumbini (nằm ở Nam Nepal ngày nay) trên đường
trở về nhà mẹ đẻ của bà. Người ta đồn rằng khi Thích Ca Mâu Ni giáng sinh, liền
bước đi 7 bước, mỗi bước đi sinh ra một đóa hoa sen. Một tay chỉ lên trời, một
tay trỏ xuống đất ông nói “Phía dưới Thiên Đàng và bên trên mặt đất, chỉ có
ta là nhất”. (Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn). Đây có thể là chuyện
đơm đặt của hậu thế. Trong vũ trụ này, có vô số Thần Phật của vô số Thiên Đàng,
có ai dám kiêu căng như thế không? Thích Ca Mâu Ni chắc không bao giờ làm như
vậy. Câu chuyện này thực sự chỉ là kết quả của những tình cảm tôn giáo cuồng
tín của người đời sau mà thôi. Một vị Phật chỉ muốn người đời tu luyện theo lời
dạy bảo của họ, chứ không muốn người ta dựng chuyện lên để mà tâng bốc.
Thích Ca Mâu Ni từ thuở nhỏ đã có tấm lòng từ bi
thương xót chúng sinh và luôn đi tìm ý nghĩa chân chính của đời người. Năm ông
19 tuổi, Thích Ca Mâu Ni rời bỏ ngai vàng, rời khỏi hoàng cung đi tu luyện. Ấn
Độ thời bấy giờ có đủ loại tông phái và đường lối tu luyện khác nhau. Đầu tiên
Thích Ca Mâu Ni tu theo pháp “vô tưởng định” (Samadi) 3 năm và cuối cùng đã đạt
tới cảnh giới này. Nhưng ông cho rằng đó không phải là Đạo, không phải là chân
lý tột cùng, cho nên ông từ bỏ nó. Sau đó ông lại tu theo “Phi tưởng – phi phi
tưởng định” 3 năm, thành công rồi nhưng ông thấy rằng đó cũng không phải là
Đạo, nên cũng từ bỏ. 2 lần, Thích Ca Mâu Ni từ bỏ những điều mà ông biết chắc
ấy không phải là Đạo. Ông không thể tìm thấy một vị chân sư nào cả, cho nên ông
tự mình tới một ngọn núi băng giá phủ đầy tuyết trắng để tu hành khổ hạnh. Mỗi
ngày ông chỉ ăn một ít hoa quả khô và chịu đói đến mức toàn thân khô héo. Ông
khổ tu như vậy để tìm chân lý. Nhưng 6 năm trôi qua, ông nhận ra rằng khổ hạnh
cũng không phải là Đạo, bèn xuống núi.
Thích Ca Mâu Ni đi tới bờ sông Hằng. Vì quá gầy yếu
xanh xao, ông ngã xuống hôn mê bất tỉnh. Một người phụ nữ làm nghề chăn dê tình
cờ đi qua, và cho ông một ít váng sữa. Thích Ca Mâu Ni ăn và phục hồi sức lực.
Nhưng ông không có cách nào tìm thấy một vị chân sư có thể hướng dẫn cho mình,
nên ông vượt qua sông Hằng, tới dưới một tán cây Bồ Đề, ngồi xuống và thiền
định. Ông thề rằng nếu không trở thành một bậc “Vô thượng chính đẳng chính
giác” thì ông thà chết tại nơi này.
Thích Ca Mâu Ni thiền định dưới tán cây Bồ Đề ấy trong
49 ngày. Buổi sáng ngày thứ 49, ông ngẩng đầu lên nhìn trời, và nhìn thấy được
những ngôi sao sáng trên bầu trời. Cũng trong một cái nhìn ấy, thần thông và
các quyền năng siêu phàm của ông lập tức nổ tung, và tư tưởng của ông khai mở.
Ông lập tức nhớ lại mọi điều mà ông đã từng tu luyện trước kia, hiểu được kiếp
sống hiện tại và nhiều kiếp trước của mình, và tất cả những điều khác nữa mà
ông cần phải biết sau khi khai ngộ. Bởi vì năng lượng phóng ra trong quá trình
khai công khai ngộ, một chấn động lớn xuất hiện trong phạm vi địa lý rộng lớn
xung quanh ông. Người ta cho rằng ấy là một trận động đất nhẹ, núi đổ hay sóng
thần, nhưng thực ra đó là do sự khai ngộ của Thích Ca Mâu Ni. Đương nhiên năng
lượng của Phật là từ bi và không làm hại ai cả. Sau 12 năm tu luyện vô cùng
gian khổ, Thích Ca Mâu Ni rốt cuộc đã ngộ Đạo. Sau đó, Phật Thích Ca Mâu Ni
liền bắt đầu cuộc đời truyền Pháp 49 năm của mình.
Đặc điểm của pháp môn tu luyện mà Thích Ca Mâu Ni
truyền dạy là Giới, Định, Huệ. Giới chính là cấm tất cả dục vọng và tâm cố
chấp, định là nói về người nhập định tu hành, huệ là nói về người khai ngộ khai
huệ. Đại tạng kinh có mấy vạn quyển, đều không lìa xa 3 chữ này. Đương nhiên,
hình thức biểu hiện của nó rất phong phú phức tạp, nhưng thực chất chính là 3
chữ này.
“Mọi người đều biết rằng Bà La Môn giáo là Thích Ca
Mâu Ni phản đối nhiều nhất. Ông cho rằng [nó] là một tà giáo, nó cùng với Phật
Giáo của Thích Ca Mâu Ni là đối lập [với nhau] nhất. Kỳ thực ta biết rằng:
Thích Ca Mâu Ni chống đối Bà La Môn giáo chứ không phải chống đối Thần của Bà
La Môn giáo. Thần mà Bà La Môn giáo tin theo vào thời kỳ nguyên thủy nhất đều
là Phật, [họ] tin theo chính là các vị Phật trước thời Thích Ca Mâu Ni. Nhưng
qua thời gian quá lâu dài, con người không còn tin Phật nữa, khiến cho tôn giáo
này trở thành tà giáo, thậm chí [họ] sát sinh để tế lễ Phật. Cuối cùng, Thần mà
họ tin tưởng và tôn thờ kia cũng không còn là hình tượng Phật nữa, [họ] bắt đầu
tin theo và thờ phụng yêu ma quỷ quái có hình tượng quái vật. Con người đã làm
cho tôn giáo trở thành tà”.
(Giảng Pháp tại Pháp hội Houston).
Lời nói và việc làm của mọi người đều trái với những
điều mà các vị Phật thời tiền sử dạy bảo. Như vậy, Bà La Môn giáo tiến vào thời
Mạt pháp. Trong thời gian ấy, Phật Pháp của Thích Ca Mâu Ni bắt đầu truyền rộng
ra tại Ấn Độ. Bởi Pháp mà Thích Ca Mâu Ni truyền chính là chính Pháp, trong quá
trình truyền Pháp, Thích Ca Mâu Ni không ngừng bác bỏ các giáo lý của các tôn
giáo khác, cho nên không ngừng có những người rời bỏ ngoại đạo đến quy y Phật
giáo. Như một trong những đồ đệ của ông, người mà sau này trở thành Xá Lợi Phất
ban đầu là người của Bà La Môn giáo. Ông cùng Thích Ca Mâu Ni tranh luận, biết
Phật Thích Ca Mâu Ni đang truyền chính pháp, bèn rời bỏ Bà La Môn giáo và trở
thành người đệ tử có trí tuệ cao nhất của Phật Thích Ca Mâu Ni. Như vậy, Phật
Pháp mà Thích Ca Mâu Ni truyền càng lúc càng cường thịnh, còn các tôn giáo kia
càng lúc càng suy tàn. Phật Pháp dần dần bị các tôn giáo kia kỳ thị và phản
đối. Trong thời gian mâu thuẫn tôn giáo lên đến đỉnh điểm, xuất hiện sự kiện
các đệ tử Phật giáo bị sát hại một cách công khai. Người đệ tử có Thần thông
nhất là Mục Kiền Liên bị những kẻ ngoại đạo lăn đá từ trên núi xuống đè chết,
trở thành đệ tử đầu tiên của Phật Thích Ca Mâu Ni chết vì lý tưởng của Phật
giáo. Ngoại đạo còn bắt bớ đệ tử của Phật Thích Ca, ném họ vào hầm lửa, hoặc
trói vào cột rồi dùng cung tên bắn chết. Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni không còn
tại thế, 500 đệ tử của Phật từng bị người ta chém đầu. Sự kiện bức hại ấy khiến
người ta vô cùng đau xót!
Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni không còn trên thế gian,
các tôn giáo khác bắt đầu hưng thịnh trở lại. Phật giáo ở Ấn Độ trải qua nhiều
lần cải tổ, cuối cùng đã kết hợp với những thứ của Bà La Môn giáo, biến thành một
loại tôn giáo mới là Ấn Độ giáo. Ấn Độ giáo không còn tin Thích Ca Mâu Ni, cũng
không thờ phụng một vị Phật nào cả. Do vậy, Phật giáo sinh ra tại Ấn Độ, cuối
cùng lại dần dần bị tiêu biến ở Ấn Độ. Song tại Đông Nam Á, tại Trung Quốc,
Phật Pháp đã truyền rộng khắp nơi, ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa của những quốc
gia này.
Tài liệu Tham khảo
1. Giảng Pháp tại Pháp hội châu Âu
2. Chuyển Pháp Luân
3. Giảng pháp tại Pháp hội Houston