Thứ Hai, 12 tháng 12, 2011

TRa loi Kimanhkac

Chào bạn Kimanhkac! tôi đã xem cho vợ bạn rồi, quẻ của người vợ thì được Thiên Thuỷ Tụng, hào 6 động biến Trạch Thuỷ Khốn, hào tử tôn suy nhược, bị nguyệt khắc, quẻ biến tuy có hào Thai nhưng gặp tuần không, Thế biến Quỷ hợi thuỷ, khó nhăn về đường con cái. Cần kiểm tra thận, tử cung bộ phận sinh dục, có lẽ có vấn đề đó .
Xem số Tử vi của bạn mệnh có Vũ khúc toạ thủ, Thai đắc địa, nếu số đúng chắc trong người có bớt hoặc nốt ruồi ở kín, hoặc có ***** tật, lại có Hoả, linh, kình, phá, hư... đoán người nở nang, cân đối, có đầu óc kinh doanh, làm ăn kinh tế khá thuận lợi, có nhiều bại tinh chiếu mệnh, nên cần chú ý đề phòng tiền của hư hao thất tán. Tính hơi cô độc, (vũ, phá) lại thêm có Thai toạ ở mệnh nên việc sinh đẻ sẻ gặp khó khăn, song nhìn cung tử cũng không xấu lắm, có Thanh long toạ thủ tốt, có khả năng hoá giải mọi rắc rối, tin rằng việc sinh con đẻ cái tuy hơi muộn nhưng có thể có, năm nay hạn gặp Địa Kiếp, nên mọi việc đều rất khó, chờ năm tới, lưu ý khi có thai phải kiêng cự giữ gìn, bảo vệ an toàn cho thai nhi, vì trong quẻ bạn gieo hào thai động, lâm không.
Thân!
Cám ơn anh Lequangtct,

Anh dựa vào số tử vi mà đoán về ngoại hình, nốt ruồi, nghề nghiệp thì đúng 95%. Như vậy, qua năm sau thì mọi việc khả quan hơn hả anh?

Em có gieo quẻ và hỏi anh một số câu hỏi liên quan đến công việc làm ăn. Hy vọng anh trả lời em sớm. Vợ chồng em rất mong gặp anh bên ngoài để nhờ anh xem một số vấn đề khác.

Kinh!
Kimanhkac

Thứ Năm, 3 tháng 11, 2011

Tại sao có nhiều người đã xem Tử vi lại còn hỏi Dịch

Chào các bác!
Tử vi cũng là một trong các môn khoa học thần bí phương đông, đều lấy cơ sở từ Kinh dịch, đều chung nguồn gốc từ Kinh dịch, đều lấy âm dương chế hoá và ngũ hành sinh khắc... để dự đoán thông tin, tuy nhiên Dịch thì xem rộng, có thể xem được tất cả, còn Tử vi thì chỉ xem vận hạn con người.
Dịch cũng xem vận hạn cuộc đời nhưng thông qua các quẻ Dịch và sự biến hoá của 6 hào, từ cơ sở đó để định cát hung. Còn Tử vy thì xem qua lá số và hệ thống hàng trăm sao gồm các chính tinh, phụ tinh, các sao lưu và sao chính mệnh, sao chính thân, các chính tinh toạ thủ... lại còn xem phối chiếu, chính chiếu, hợp chiếu... rồi cung giáp, hạn.v.v.. Lại còn đắc địa, hãm địa... thật là nhiều thứ, lại còn có cung chính cung phụ, cung cường cung nhược nhất là Mệnh và Thân, còn quẻ dịch thì phải xem hào Thế, dụng thần, quẻ Thể, quẻ Dụng, quẻ hỗ, quẻ biến, chung quy cũng nhằm tìm cơ sở để luận giải và dự đoán thông tin chính xác.
Thiển nghĩ tuy hình thức và phương pháp khác nhau song kết quả thì phải giống nhau mới phải, nhưng đảo qua trên diến đàn mạng thấy có rất nhiều người đã xem số Tử vy rồi nhưng vẫn còn sang hỏi Dịch, phải chăng số Tử vi chưa đáp ứng được lòng mong đợi của các bạn ấy? Hay Tử vy chưa giải toả được những thắc mắc trong họ, giống như câu thơ của nữ sỹ Xuân Quỳnh xưa:
"Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tânh bể"
Phải chăng các bạn ấy tin Dịch hơn tin Tử vy?
Vậy tôi xin lập topic này để mọi người am hiểu cả 2 bộ môn Tử vi và Dịch học cùng trao đổi, thảo luận. Rất mong các bậc cao nhân và các bạn trẻ cùng tham gia để Diễn đàn thêm sôi động và cũng để hiểu thêm lẽ huyền vi của tạo hoá, những bí ẩn của đời người và cách tiếp cận, ngõ hầu xu cát tỵ hung.
Thân ái!
Quang Đạọ: Nhận xem gia sự, xem quẻ dịch, xem số tử vi, xem ngày, tư vấn phong thuỷ theo Kinh dịch trên cơ sở ngày giờ tháng năm sinh.
Bạn nào có nhu cầu hãy gọi cho anh Quang Đạo: 0983225079 hoặc gửi về mail: lequang306@gmail.com

Thứ Năm, 8 tháng 9, 2011

TÌM HIỂU QUẺ THIÊN SƠN ĐỘN.

 I.TÊN GỌI: Ngọai quái  là quẻ CÀN có nghĩa làTHIÊN (Trời). Nội quái là quẻ CẤN có nghĩa là SƠN (núi). Nên tên quẻ gọi là Thiên Sơn Độn. Độn có nghĩa là tránh lui, là lãng tránh, là lẫn trốn, là lánh trần ẩn dật, là khiêm nhường, nhường bước.
II.TỰ QUÁI ( Thứ tự quẻ): Hằng giảcửu dã. Vật bất khả dĩ cửu cư kỳ sở, cố thụ chi dĩ Độn. Độn giả thối dã. Dịch nghĩa: Hằng có nghĩa là trường cửu, bền lâu. Trên đời này không có vật gì, sự việc gì đứng yên mãi một chổ mà không có sự đổi thay, dịch chuyển. Hễ ở lâu tất phải tránh lui. Mặt trời phải lui để cho màn đêm buông xuống; mùa xuân phải lui để cho mùa hè xuất hiện; làm quan suốt đời phải về hưu để nhường chỗ cho đòan hậu tấn; khách đến chơi nhà ngồi lâu phải lui để trả tự do lại cho chủ nhà. Cho nên sau quẻ Hằng thì tiếp đến quẻ Độn. Độn có nghĩa là tránh lui.
Đến đây sẽ có câu hỏi, tại sao đã nói Đạo Hằng là không thay đổi, thì tại sao không ngồi yên một chỗ mà phải Độn, phải tránh lui. Hằng là đạo của trời đất, là bất di bất dịch, là thuộc về tiên thiên, nhưng chữ VẬT trong câu VẬT BẤT KHẢ DĨ CƯ KỲ SỞ là thuộc về hậu thiên. Đã nói là hậu thiên thì phải có sự xê dịch biến thiên, nhưng biến thiên để đúng theo đạo lý. Độn là theo hòan cảnh mà biến thiên để giữ đúng đạo lý. Mùa xuân mà không tránh lui cho mùa hè là sai đạo lý. Thế phải rút lui để bảo tòan tính mạng mà không rút lui sẽ chuốc họa vào thân.
Quẻ có hai hào âm bên dưới và bốn hào dương bên trên cho thấy âm đang trưởng và dương đang tiêu, hay còn có nghĩa thời này bọn tiểu nhân đang thịnh, lấn lướt người quân tử. Cho nên lúc này người quân tử nên lánh thân ẩn dật để bảo tòan thân danh và để chờ thời cơ thuận lợi. Có câu “ Minh triết bảo thân” hoặc câu “ Tránh voi chẵng xấu mặt nào”, sự tránh lui của người quân tử trong thời này là khế cơ hợp đạo.
III. SÓAN TỪ ( Ý nghĩa của quẻ): ĐỘN: HANH, TIỂU LỢI, TRINH
Độn có nghĩa là tránh lui mà sao lại được hanh, tiểu lợi, trinh.
Quẻ này là thời đạo tiểu nhân trưởng, đạo quân tử tiêu. Thế lực người quân tử không đủ sức bảo vệ thân mình cũng như không đủ sức xoay chyển tình thế trước thế lực của bọn tiểu nhân nên phải tìm phương thóai thân để bảo tòan danh tiết. Xử sự được như vậy , tuy thân mình độn nhưng đạo mình được hanh.
Quẻ này tuy âm trưởng đến hai âm nhưng bè quân tử vẫn còn có bốn dương liên kết với nhau. Nếu người quân tử khéo léo biết lựa thời cơ, biết cách cư xử với bọn tiểu nhân, thì dù hòan cảnh có khó khăn nhưng vẫn được tiểu lợi và trinh.
IV. SÓAN TRUYỆN( lời giải thích sóan từ của đức Khổng Tử)
SÓAN VIẾT: ĐỘN, HANH. ĐỘN NHI HANH DÃ. CƯƠNG ĐANG VỊ NHI ỨNG, DỰ THÌ HÀNH DÃ, TIỂU LỢI, TRINH, TẨM NHI TRƯỠNG DÃ. ĐỘN CHI THÌ NGHĨA ĐẠI HỈ TAI
Dịch nghĩa:
ĐỘN, HANH. ĐỘN NHI HANH DÃ: Thời độn, biết rút lui kịp thời đúng lúc thì được hanh thông. Thân người quân tử tuy thối nhưng đạo người quân tử được hanh thông, không hề bị bế tắc. Trong thời tiểu nhân đạo trưởng, quân tử đạo tiêu thì người quân tử thóai thân để bảo vệ thân danh, tiến đức tu nghiệp, củng cố nội lực, chờ thời cơ thuận tiện để mưu đồ đại cuộc là chước hay nhất. Do đó nên độn mà được hanh.
CƯƠNG ĐANG VỊ NHI ỨNG, DỰ THÌ HÀNH DÃ, TIỂU LỢI, TRINH, TẨM NHI TRƯỞNG DÃ:
Đang vị: đương có chức vụ và quyền uy. Dự thì hành dã: Tùy thời mà hành động. Tẩm: dần dần, từ từ.
 Hào cửu ngũ là hào dương, đác vị đắc trung. Hào cửu ngũ này lại ứng với hào lục nhị bên dưới cũng đắc vị đắc trung. Hào cửu ngũ lại làm lãnh đạo trong nhóm tứ dương. Tuy là đang đương quyền đương chức, tuy làchung quanh đang có người ủng hộ phù trì, nhưng cữu ngũ  thấy xa trông rộng, biết thế mình đang yếu trước đám tiểu nhân đang tiến lên, tương lai rồi cũng sẽ bị khổn nguy về tay chúng, nên chủ động rút lui nhường bước trước là để tránh tồn thất cho đại cuộc, sau để bảo tòan danh tiết, củng cố nội lực, chờ thời cơ sẽ tính kế về sau.Tuy là âm đang trưởng , nhưng mà còn dần dà trưởng, từ từ trưởng chớ không phải bạo phát. Kẻ tiểu nhân chưa mạnh nhưng người quân tử đã nhường bước. Nếu không phải là người sáng suốt nhìn xa thấy rộng, biết người biết ta, dự đóan được thời cơ; nếu không phải là người có đầy đủ dũng khí biết đặt nghĩa cã, đại cuộc trước những toan tính cá nhân thì không dễ gì người quân tử chịu rút lui trong lúc này. Chính nhờ vậy nên người quân tử vừa có tiểu lợi vừa được trinh: Tiểu lợi làbảo tòan được thân danh. Và quan trọng nhất là được chữ Trinh: đó là vẫn  giữ được cốt cánh trinh chính của cá nhân mình, phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất; đó là vẫn giữ được lý tưởng và chí hướng mình đối với đại cuộc ; đó là sự nguyên vẹn và an tòan của đại cuộc ( không bị làm hỏng do người quân tử biết rút lui đúng thời kịp lúc).

ĐỘN CHI THÌ NGHĨA ĐẠI HỈ TAI: Nghĩa lý chữ THỜI trong quẻ độn lớn lắm thay. Sở dĩ thánh nhân khen như vậy là vì thời độn là thời phải tháo lui trốn chạy, nhưng người quân tử khéo biết DỰ THỜI HÀNH DÃ thì vừa được minh triết bảo thân, vừa phù trì thế đạo.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN:
TƯỢNG VIẾT: THIÊN HẠ HỮU SƠN, ĐỘN. QUÂN TỬ DĨ VIỄN TIỂU NHÂN, BẤT ÁC NHI NGHIÊM.
Viễn: tránh xa. Ac: dữ dằn, xấu xa, gườm gườm hằm hằm ra vẽ dữ tợn. Nghiêm: nghiêm nhặt, chặt chẻ, nghiêm túc, cẩn thận, nghiêm trang.
Trời thì vô cùng, núi thì hữu hạn. Núi lừng lững tiến lên cao như chọc thủng trời. Đứng dưới chân núi nhìn lên thì ta tưởng chừng như trời ngay sát trên đỉnh núi. Nhưng khi lên tới đỉnh núi thì ta thì ta thấy trời và núi cách xa nhau nhiều lắm. Trời tuy cách xa núi nhưng vẫn bao trùm, che chỡ và dung chứa núi. Có ngọn núi cao nào mà thóat ra khỏi gầm trời. Đó là hình tượng quẻ Độn. Người quân tử xem tượng ấy thì học cách tránh xa đứa tiểu nhân. Tránh xa không có nghĩa là ghét bỏ, mặc kệ, không buồn nhắc tới để khỏi lụy thân mình. Tránh xa  như vậy chỉ làm cho bọn tiểu nhân thêm tác tệ mà có thể gây phương hại thêm cho những người chung quanh; trong khi vai trò của người quân tử là “ At ác dương thiện”. Do đó, chữ Nghiêm nơi đây bao hàm ý nghĩa vừa có ân vừa có uy. Có ân để thể hiện đức háo sanh của trời đất, để dung dưởng cho kẻ tiểu nhân được bảo tòan sự sống. Có ân để chuyển tâm kẻ tiểu nhân bằng tình thương, để kẻ tiểu nhân cãm đội ơn đức của người quân tử mà tỏ dạ tín thành, yêu mến, cãm phục, vâng lời, nhờ đó người quân tử mới có thể giáo hóa kẻ tiểu nhân trở nên người tốt, trở thành một thành viên tích cực trong cộng đồng nhân lọai. Có uy để cho kẻ tiểu nhân biết kính sợ màkhông lờn dễ xem thường. Có uy để người tiểu nhân thấy  rằng quân tử và tiểu nhân không phải là “ cá mè một lứa”, mà có một ranh giới vô hình giữa họ. Nếu muốn vượt qua lằn ranh này kẻ tiểu nhân phải trãi qua một quá trình tu thân luyện kỷ. Về phần người quân tử, để làm được VIỄN TIỂU NHÂN, BẤT ÁC NHI NGHIÊM người quân tử phải hết sức phản tỉnh nội cầu, và liên tục tiến đức tu nghiệp để đủ sức dung chứa được tiểu nhân và làm gương tốt cho tiểu nhân. Trong đời thường, dù muốn dù không thì bên dưới người quân tử luôn luôn có mặt tiểu nhân, giống như dưới trời luôn luôn có núi. Viễn tiểu nhân bất ác nhi nghiêm là một phương xữ thế rất tuyệt vời mà người quân tử không thể có cách chọn lựa nào hay hơn được. Tuy nhiên, Thánh nhân xưa cũng lưu ý người quân tử học dịch phải hết sức cẩn thận vì không phải cứ rút lui là tốt hết đâu. Độn chi thời nghĩa đại hỉ tai!Cái nghĩa của chữ thời lớn lắm thay; mỗi hào từ cho thấy một thời của độn, hoặc tốt hoặc xấu.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN:
SƠ LỤC: ĐỘN VĨ: LỆ, VẬT DỤNG HỮU DU VÃNG
Vĩ: đuôi. Sơ lục là hào dưới cùng của quẻ Độn. Ở vị trí đuôi của quẻ Độn nên gọi là Độn Vĩ. Ở thời Độn, ai cũng lánh thân trước để bảo thân, nhưng mình còn rù rờ chậm chân, không theo kịp người nên rất nguy hiễm. Tuy nhiên, vì là hào sơ lục ở sau đuôi quẻ, ví như người vô danh tiểu tốt, ít bị người dòm ngó dèm pha. Do vậy, nếu sơ lục  ý thức được thân phận và hòan cảnh của mình nên nép mình để xem chừng thời thế, không nên xuất đầu lộ diện mà hành động theo ý mình thì cũng có thể được an thân.
TƯỢNG VIẾT: ĐỘN VĨ CHI LỆ BẤT VÃNG HÀ TAI !
Độn mà ở sau người thì có nguy hiễm, tuy nhiên nếu biết nguy mà nấp nép, không tiến vãng , không manh động thì làm sao mà có tai họa cho được!
LỤC NHỊ: CHẤP CHI DỤNG HÒANG NGƯU CHI CÁCH, MẠC CHI THĂNG THÓAT
Chấp : trói buộc. Ngưu : trâu( con vật có tính nhu thuận). Hòang: màu vàng ( ở ngôi trung trong hà đồ ). Hòang Ngưu tượng trưng cho sự nhu thuận vàtrung chính, do đó ám  chỉ lục nhị. Cách: da thuộc. Mạc chi thăng thóat : giao kết rất bền chặt.
Lục nhị chính ứng với cửu ngũ, cả hai đều đắc trung đắc chính, nên tương giao tương kết chặt bền như được cột với nhau bằng tấm da ( da có tính kết tính , người ta chế ra a-dao để trộn vôi quét tường ). Tình nghĩa quân thần tương liên bền chặt, lục nhị không dám bỏ trốn vì phải kề cận bên cữu ngu, tựa như Cơ Tử là phụ sư đời nhà An. Nhà An suy vi Cơ Tử không dám trốn đi để tránh tai họa mà nói rằng “ Ngã bất cố hành độn”.
Hào này cũng ứng với trường hợp của Hạ Vũ trị thủy trong 10 năm dưới thời vua Thuấn. Ngài hết sức tận tụy và mẫn cán với vua, với việc nước đến độ trên đường công tác, có dịp đi ngang nhà ngài cũng không dám vào thăm vì sợ ảnh hưởng đến công tác.
TƯỢNG VIẾT: CHẤP DỤNG HÒANG NGƯU, CỐ CHÍ DÃ. Nghĩa là Hào lục nhị và cửu ngũ tương liên bền chặt như buộc dính nhau bằng tấm da, ý chí ấy trước sau vẫn kiên định, một lòng sắt son chung thủy.
CỬU TAM: HỆ ĐỘN: HỮU TẬT LỆ, SÚC THẦN THIẾP CÁT.
TƯỢNG VIẾT: HỆ ĐỘN CHI LỆ HỮU TẬT BẠI DÃ. SÚC THẦN THIẾP CÁT, BẤT KHẢ ĐẠI SỰ.
Bại: kiệt sưc, mệt mõi. Tật: đau khổ. Lệ: Nguy Trong thời độn, thay vì phải độn cho nhanh , cho xa thì cửu tam dương cương lại vướng víu , bận bịu với lục nhị bên dưới nên rất nguy hiễm. Trong hòan cảnh đó nếu nuôi bọn thần thiếp ( thần : người cận kề dưới trướng để sai sử; thiếp: nàng hầu ) để sai sử, để được giúp đở trong lúc cần kíp thì cũng có thể tốt lành được. Tuy nhiên trong hòan cảnh này người quân tử không thể muu việc lớn được ( Ngài Phan Bội Châu nhắc lại tích của Thượng tướng quân Thái Tùng Pha dưới thời Viên Thế Khải và nàng thiếp Phụng Tiên là trường hợp điển hình cho hào này). Thần thiếp được súc cũng không giúp được người quân tử làm nên đại sự.
Trùng Nhĩ Tấn văn Công khi lưu vong nhờ nhiều hiền thần phò tá nên sau phục quốc được. Khi hồi trào, Tấn văn Công tưởng thưởng cho những người có công thì có tiểu thần Hồ Thúc tâu rằng:
“ Tôi từ Bồ Thành theo chúa công đi khắp bốn phương, chân đã mòn gót. Ở thì tôi lo bữa ăn bữa ngủ; đi tôi lo nổi ngựa xe, chớ hề giây phút nào rời chúa công bên tả bên hữu. Nay chúa công ban thưởng kẻ tòng vong mà chẵng nhắc tới tiểu thần, tưởng khi tiểu thần có tội chi chăng?”
Tấn văn Công nói:
“ Ngươi bước tới đây ta nói rõ cho ngươi nghe! Vã những người dạy ta nhân nghĩa, khiến ta mở mang gan phổi thì được thượng thưởng. Giúp ta dùng mưu lược khiến ta chẵng phục tòng chư hầu thì được thứ thưởng. Xông tên đá, lướt mũi nhọn, lấy thân che đỡ cho ta thì được kế thứ thưởng. Cho nên thượng thưởng là thưởng đức; thứ thưởng là thưởng tài;kế thứ là thưởng công. Còn như đi đứng nhọc nhằn là sức kẻ thất phu, phải sau bậc tam thưởng chừng đó mới tới ngươi.”
 Hồ Thúc nghe thì bằng lòng mắc cở mà lui ra. Lời của Tấn văn Công giúp ta hiểu vì sao súc thần thiếp mà được cát . Tuy nhiên không thể làm thành đại sự được. Việc phục quốc đại sự của Tấn văn Công ứng vào chữ thời. Nếu thời chưa có thì cát của súc thần thiếp chỉ là tiểu sự.
.
CỬU TỨ:HÁO ĐỘN: QUÂN TỬ CÁT, TIỂU NHÂN PHỦ
TƯỢNG VIẾT: QUÂN TỬ HÁO ĐỘN, TIỂU NHÂN PHỦ DÃ
Háo: ưa thích. Phủ: không
Cửu tứ chính ứng với sơ lục. Cửu tứ dương cương ở ngọai quái, sơ lục âm nhu ở nội quái. Trong lòng thì có tình cảm với sơ lục đó, nhưng khi nhận ra hòan cảnh của mình thì cửu tứ cương quyết dứt tình mà trốn đi ngay được nên mọi việc đều tốt lành. Chỉ có người quân tử mới làm như vậy được, tiểu nhân thì vương vấn không rời nên  không thể bỏ đi được. Trình Di trong Chu dịch thị truyện cho rằng đây là trường hợp của người biết khắc kỷ phục lễ, lấy đạo nghĩa áp chế dục vọng.
Người quân tử tuy có tính háo nhưng làm được nghĩa độn, tiểu nhân thì không thể làm như vậy được
CỮU NGŨ: GIA ĐỘN: TRINH CÁT.
TƯỢNG VIẾT: GIA ĐỘN TRINH CÁT, DĨ CHÍNH CHÍ DÃ
Gia: tốt đẹp. Gia độn là rút lui một cách tốt đẹp
Cữu ngũ là hào đắc trung đắc chính. Đang chính ngôi chính vị, lại có người chính ứng phù trì bên dưới là lục nhị  cùng đắc trung đắc chính . Tuy nhiên, do biết trước tương lai của mình sẽ bị nguy vong trước thế lực đang lên của bọn tiểu nhân nên chủ động rút lui thóai vị giữa lúc đang còn đủ đầy quyền lực và có người ngay chính ủng hộ mình . Đó mới là gia độn. Đó mới có thể giữ được thân danh cho cá nhân mình ( Trinh), và không làm tổn hại đến cơ đồ đại sự mà mình đang theo đuổi và gìn giữ ( Cát ).Muốn được gia độn trinh cát thì tâm chí phải luôn trung chính. Không phải người biết giữ được chính chí thì không thể nào làm được gia độn. Đây là trường hợp của Tổng Thống Charles De Gaulle của Pháp. Làm Tổng Thống từ 1958-1969, đã từng đưa nước Pháp ra khỏi cơn giông tố sau chiến tranh Algerie. Nhưng khi thấy sự tín nhiệm của dân chúng không được như xưa, tuy hãy còn chưa hết nhiệm kỳ, ông vẫn xin từ chức. Hành động này gíup ông vẫn giữ được lý tưởng và thân danh của ông, mà còn khiến cho cã nhân dân Pháp lẫn thế giới đều cãm phục.
Tình thế của chính quyền Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 cũng là một thí dụ inh họa rất cụ thể. Tổng Thống Dương văn Minh lúc bấy giờ biết không giữ nỗi chính quyền trước sức mạnh của đòan quân giải phóng đang từ từ tiến vào cửa ngỏ thủ đô nên ông cùng các quan chức thuộc quyền trong bộ máy chính quyền tuyên bố rút lui và chờ đợi chính quyền mới đến để bàn giao quyền lực. Đó là gia độn. Nhờ hành động sáng suốt và dũng cãm này nên máu của hai phe cũng như của nhân dân đã không đổ, tài sãn bàn giao nguyên vẹn, và đặc biệt nhất là thân danh củaTổng Thống Dương Văn Minh  vẫn được bảo tòan . Đó là được Trinh Cát. Đó là bởi ông Minh có được Chính Chí. Hào này là linh hồn của sóan từ ( Độn nhi hanh dã. Cương đang vị nhi ứng, dữ thời hành dã. Dữ thời hành da, tiểu lợi, trinh. Độn chi thì nghĩa đại hỉ tai! ) mà tiểu lợi của sóan từ ứng với những gì ông Minh nhận được sau những công lao mà ông đã làm cho dân cho nước vào thời điểm đó: không bị đi học tập cải tạo như bao tướng lãnh cao cấp khác của chánh quyền củ, được khen ngợi như người có quyết định sáng suốt trong thời khắc lịch sữ của dân tộc, được sống yên thân trong ngôi biệt thự HOA LAN của ông cho đến cuối đẫn ời.  Trinh ứng với việc ông Minh vẫn giữ vẹn khí tiết và lý tưởng của mình: Trong lòng người Sài Gòn ông Minh vẫn còn nguyên vẹn hình ảnh của  một vị Đại Tướng gan dạ, mưu trí; một vị Tống Thống trong thời khắc ngắn ngũi để làm một sứ mạng cao cả là đánh hồi chuông lệnh đẻ đánh dấu cái ngày hết sức quan trọng của dân tộc Việt nam: Độc lập , tự do và hạnh phúc. Một cuộc nội chiến dai dẵng đau thương trên ba mươi năm đã kết thúc hết sức êm thắm tốt đẹp để làm tiền đề cho một nước Việt Nam xứng tầm vóc cùng bạn bè năm châu như hiện nay.
 THƯỢNG CỬU: PHÌ ĐỘN VÔ BẤT LỢI
TƯỢNG VIẾT: PHÌ ĐỘN VÔ BẤT LỢI, VÔ SỞ NGHI DÃ
Phì : khoan khóai. Phì độn: là rút lui mà trong lòng khoan khóai, vì thế mà làm việc gì cũng hay, cũng lợi. Nghi: nghi ngờ, nghi ngại.Trong thời độn, thế tiểu nhân đang thắng, đạo quân tử lui, người quân tử thối tàng, ung dung tiêu sái để minh triết bảo thân thì không có gì là không lợi, không có điều gì phải nghi ngại nữa.
Gọi là phì độn là vì hào thượng cửu là vô vị vô ứng, tượng trưng người quân tử có tài  nhưng muốn thoát vòng kềm tỏa của lợi danh, chỉ muốn lấy đạo đức làm cao lương , lấy cao lương làm mỹ vị. Ba hào cửu tam, cửu tứ, cửu ngủ đều bị dính dáng ràng buộc với hào âm bên dưới, riêng thượng cửu ở trên cùng ngọai quái, lại không dính líu ràng buộc với ai nên thung dung tự tại như chim không bị lưới giăng, tự do mặc sức bay cao bay xa trên bầu trời rộng mênh mông. Thời quân tử đạo tiêu nên càng độn xa được bao nhiêu thì càng tự do bấy nhiêu. Đây là trường hợp của Trương Lương sau khi giúp Bái Công thống nhất Trung Nguyên, uy tín lừng lẫy, liền xin về quy ẩn , đóng cửa từ khách để tu tâm dưỡng tánh.
Con ông là Trương Tích Cường một hôm hỏi ông:
“ Nay cha đã làm Thầy của vua, nhiều phen lập nhiều công lớn, làm quan đến chức tam công, lẽ thì ăn ngọc thực muôn chung, an hưởng giàu sang lâu dài với nước, làm công thần muôn đời cũng chẵng phải là quá lắm, sao lại đóng cửa từ khách, ở chỗ vắng ào ra thong thảẽ mà chịu thanh khổ như vầy là ý chi vậy?”
Trương Lương nói:
“Con biết sao được! Vã chăng trong đời mà ham giàu sang là vui công danh đã được, mừng vinh hoa nhãn tiền. Ngồi cao mà hưởng, nhất hô bá ứng, thê thiếp đầy nhà, ca xướng đầy tai thì đã gọi là chí bình sinh đã tột rồi, chứ chẵng có biết ngôi tột bực nhân thần thì thiên hạ hay ghen ghét, trèo cao không lẽ mà không té, chứa đầy không lẽ không tràn. Vua nghi mình quyền trọng, Trời ghét kẻ đầy tràn, kẻ ghét đã mong lòng gấm ghé, người hiềm chờ dịp đẩy đưa. Chẵng may màcửu trùng sinh giận, nhiều miệng xúi nói vào thì chừng ấy hết kẻ đở che, chạy đi đâu cho khỏi, có phải mình là đã bị hại mà vợ con lại mang tai, phú quý sinh hoa phủi tay trong nháy mắt. Chi cho bằng vui chơi non nước, hưởng thú giang hồ, say túi càn khôn, giởn bầu nhật nguyệt, rieng ở một nhà vào ra thong thả, tuy vắng vẽ một mình mà trong lòng  khóai lạc; thà ăn rau cỏ sớm trưa mà tọai chí tiêu dao, vinh nhục khỏi lo, không màng danh lợi, an thân bảo mạng, thong thả trọn đời giữ trọn tiếng lương thần chẵng hơn cuộc vinh hoa phú quý sao?”
Trương Tích Cường bái phục mà nói rằng:
“ Nay con mới biết ý cha, ấy là đạo minh triết bảo thân đó.”
                                                            ( Tây Hán Chí trang 552-553 )
Hào này còn dành cho người quyết tâm tu hành giải thóat để về nơi nước nhược non bồng, cầu thóat khỏi nẽo luân hồi sanh tử. Cũng có thể thân còn ở chốn trần lao, nhưng tâm đã được phì độn vô bất lợi vô sở nghi dã như lời dạy của đức Như Ý Đạo Thòan Chơn Nhơn dạy tại Vĩnh nguyên Tự, Tuất thời ngày 10 tháng 6 Bính Thìn ( 6/7/76):
“ Đứng trước một xã hội tao lọan, người giải thóat phải tự giải thóat cái tao lọan ở tâm mình để biến hòa cảnh hiện tại tao lọan trở thành an nhiên, đó là giải thóat. Đứng trước vật chất vinh hoa phú quý, danh lợi dẫy đầy sáng chói, người tu học Thiên Đạo Đại Thừa phải nhắm vào sự sáng chói của tâm, sự tịch tịnh của tâm, như núi Thái Sơn sừng sững, trước gío lọan sấm chớp vẫn không lay chuyển, đó là giải thóat. Ở vào cảnh vinh sang phú túc, nệm ấm chăn êm mà tâm vẫn an nhiên thanh tịnh như ngồi trên nệm cỏ bồ, như uống nước suối trong veo, như ăn những quả đào ngon ngọt, không thấy tâm động vì có đó mà phải tha thiết, vì mất đó mà phải rối lọan, đó là một giải thóat nữa. Đứng trước nghịch cảnh trái ngang, nhưng tâm vẫn thấy như ngồi trên bàn thạch, hoặc ở chổ thanh thóat bao lađể biến hòan cảnh ấy như gió thỏang, như mây bay, tụ tan không ngừng nghỉ, đó cũng là một phương giải thóat. Ở vào hòan cảnh bị động vì các lý do sống còn, nhưng tâm vẫn an nhiên thanh tịnh để sáng suốt giải quyết mọi vấn đề như cá trong nước, như rồng trong mây, có thể hòa hợp tâm linh trong vũ trụ, cho tâm khỏi dao động mới hòa mình với nếp sống hiện tại, từ việc to tát đến việc nhỏ nhen vẫn là một con số không trong cái có, đó cũng là phương giải thóat”

KẾT LUẬN:
Kết thúc quẻ Độn, chúng ta có thể rút ra được những bài học như sau:
Độn là rút lui, nhưng không phải là hèn nhát, trốn chạy, mà một sách lược trước mắt để chờ thời cơ thuận tiện, để củng cố nội lực, để tính kế lâu dài.
Độn đúng lúc đúng thời không những bảo tòan được thân danh mà còn giữ vững được khí tiết, lý tưởng, hứa hẹn một tiền đồ tốt đẹp cho đại cuộc.( Độn: hanh, tiễu lợi, trinh )
Trong thời Độn, lánh xa bọn tiểu nhân để “ Minh triết bảo thân”, nhưng biết cách đối xữ với bọn tiểu nhân đúng tư thế của người quân tử ( bất ác nhi nghiêm) thì mới được hanh, mới được tiểu lợi, trinh.
Có câu “ Quân tử cầu ư nghĩa, tiểu nhân cầu ư lợi”, có  nghĩa là người quân tử tìm việc nghĩa mà làm, trong khi đó kẻ tiểu nhân chỉ làm việc gì có lợi cho bản thân mà thôi, bất chấp đó là điều phi nghĩa. Đó là lý do mà thánh nhân chỉ dùng chữ “ tiểu lợi” khi bất đắc dĩ nhắc đến cái lợi đương nhiên phải cónếu Độn đúng thời đúng lúc.
Độn phải đung thời, đúng lúc, đúng đạo lý mới được tốt. Nếu không cẩn thận, độn cũng có thể chuốc lấy thảm hại. Thánh nhân dạy ý nghĩa sáu hào chính là các thí dụ minh họa cho việc độn hay hoặc độn dỡ:
Sơ lục: Độn Vĩ: Độn mà chậm chạp rù rờ nên không tốt
Lục nhị: Cố chí để phù trì cữu ngũ, không dám độn một mình mà lúc nào cũng sát cánh với cửu ngũ.
Cữu tam: Hệ độn: Độn mà còn bìu ríu tình riêng nên không làm nên đại sự.
Cưủ tứ: Háo độn: Độn mà còn dính dáng với sơ lục, chỉ người quân tử mới có thể kịp thời giác ngộ chỉnh đốn bản thân nên được cát. Kẻ tiểu nhân thì không thể.
Cữu ngũ:Gia độn: Độn đúng lúc kịp thời nên được trinh cát
Thượng cửu:Phì độn: Độn một cách an nhiên , thư thái tự do , vượt khỏi vòng kềm tỏa của lợi danh thế sự. Hào này là tốt nhất trong các hào.
THANH SƯƠNG

Tìm hiểu quẻ Địa Thiên Thái

Quẻ Địa Thiên Thái gồm nội quái là Kiền và ngọai quái là Khôn, 2 quẻ đầu trong 64 quẻ Kinh Dịch. Thái có nghĩa to lớn, thông suốt, tốt đẹp, yên ổn

-Tượng quẻ cho thấy, hạ quái là Kiền, tức Dương khí của Trời hạ xuống; thượng quái là Khôn, là Đất, tức Âm khí bay lên, thể hiện sự gặp gỡ giao hòa giữa Trời Đất, hiểu rộng ra là hai khí Âm Dương giao tiếp nhau, tượng trưng sự hanh thông trong định luật thiên nhiên.


-Áp dụng vào phương diện thời tiết: Khí Dương giáng xuống len lỏi vào trong lòng đất, đun đẩy tác động làm cho đất màu mỡ phát triển nuôi sống cây cỏ tươi tốt. Khí âm bay lên, hòa cùng khí Dương làm cho mưa thuận gió hòa

- Đối với vận hạn chúng sanh: Thái là thời Trời ban rải ân lành xuống cho thế gian, và chúng sanh nói chung, con người nói riêng đều một lòng ngưỡng vọng ân cao đức cả của Đấng Tạo Hóa, hết lòng sống thuận tùng thiên lý, nên cảnh thế gian thái bình hạnh phúc, bốn phương cộng lạc.

-Xét về Hình nhi hạ, tượng quẻ cho thấy : Kiền biểu hiệu cho bậc lãnh đạo, hạ mình xuống hòa hợp với nhân dân, chăm lo cho nhân dân được tượng trưng bởi quẻ Khôn, thể hiện tính nhu thuận tuân hành sự điều động cai trị của người lãnh đạo cho nên tạo nên được thời thái bình thạnh trị cho quốc gia. Như thời Nghiêu Thuấn, trên nói dưới nghe. Con người làm được sứ mạng thế Thiên hành hóa, tiếp nối Trời trong việc sanh hóa vạn vật nơi chốn hữu hình trong vai trò chủ tể muôn loài để "tài thành Thiên Địa chi Đạo, phụ tướng thiên địa chi nghi, tả hữu dân" như lời Đại tượng truyện quẻ Thái.

-Do vậy, Hình tượng quẻ Thái còn có thể được hiểu : Kiền là Dương tượng trưng cho Trời và Khôn là Âm tượng trưng cho người. Vì Trời –Người vốn đồng bản thể linh quang, nhưng Trời vô hình, còn Người hữu hình. Thời Thái là giai đọan tâm Trời và tâm người có sự cảm ứng tương liên, vì con sống trong khuôn mẫu đạo đức theo đúng luật Trời, thể hiện được tinh thần Thiên nhân hiệp nhứt.

Trong phần Thóan truyện, Thánh nhân nói: Nội dương nhi ngọai âm, nội kiện nhi ngoại thuận, nội quân tử nhi ngoại tiểu nhân. Kiền ở trong tượng trưng cho quân tử và Khôn ở ngòai tượng trưng cho tiểu nhân. Thời Thái là thời thịnh trị của người quân tử là người có đức tính tốt đẹp đạo đức, thuần lương thánh thiện, hạng tiểu nhân phải né tránh, lánh xa.

-Quân tử và tiểu nhân không chỉ được hiểu hạn hẹp trong ý nghĩa ngôn ngữ nhân gian, mà có thể được xem là 2 phần đối lập trong một con người: Đó là chơn thần và thức thần. Chơn thần tốt đẹp ví như người quân tử, còn thức thần bị tập nhiễm do bị chỉ huy bởi thất tình lục dục, tham sân si nên bị coi như là tiểu nhân. Nếu con người có sự giác ngộ, sáng suốt, biết phân biện thiện ác, không để thức thần lôi kéo xa rời đạo lý, là con người tiến gần đến chỗ "Quân tử đạo trưởng , tiểu nhân đạo tiêu dã" có nghĩađạo người quân tử lớn lên, đạo của kẻ tiểu nhân suy mòn, tức chơn thần đã khống chế được thức thần, con người làm chủ được thất tình, sự ham muốn để tạo tiền đề cho tâm linh con người thăng hoa tiến hóa vượt lên cõi thượng thiên.

-Đối với tôn giáo: Đạo khai là để cứu đời. Đời lọan lạc khổ đau là do con người đắm chìm trong dục hải, lãng quên nguồn cội thiêng liêng, quay lưng với gia tài của Thượng Đế phát ban. Con người phải chịu một thời Bĩ đen tối. Để rồi một vị Giáo Tổ ra đời khai sáng một nền tôn giáo, đem ánh sáng cứu độ soi sáng dẫn dắt con người ra khỏi nẻo tối tăm chính là lúc nhân lọai bắt đầu bước sang thời Thái. Nguồn sáng cứu rỗi cứ len chảy trong lòng nhân thế để đến một lúc nào đó, con người bừng tỉnh và mở rộng cõi lòng đón nhận Thiên ân, tu hành giải thoát.

Quẻ Thái nói lên sự hanh thông ngay từ đầu, thể hiện ở hào Sơ Cửu "bạt mao nhự, dĩ kỳ vi, chinh cát [Nhổ rể cỏ tranh, lên cả đám, tiến hành tốt] Cỏ tranh là cỏ rất khó nhổ vì rễ nó rất dài và chằng chịt, nhưng thời Thái hanh thông , làm việc gì cũng dễ dàng, hàm nghĩa việc làm rất nhỏ nhưng kết quả rất lớn: cho nên cát. Con người ý thức được mình đang ở vào thời Thái tức là được ơn Trời , làm gì cũng dễ dàng thành công, cho nên phải biết tận dụng để phát huy giúp đời. thực hiện sứ mạng vi nhân.

Thời vận hanh thông, muốn đem chí giúp đời phải biết phương cách để được trọn vẹn sống trong ơn Trời như ý nghĩa của hào Cửu Nhị: bao hoang, dụng hằng hà, bất hà duy, bằng vong, đắc thượng vu trung hành [bao dung sự hoang phế, dùng cách vượt qua sông , không bỏ sót kẻ ở xa, quên bè phái, phải tôn trọng hành động trung chánh] dễ dàng bao dung tha nhân, không vì sự thành công của mình mà khe khắt với người khác, đòi hỏi người phải như mình, kẻ tốt, người xấu đều có chỗ sử dụng, để thể hiện đức Nhân, là một cách để tạo thêm âm chất cho chính mình.

Phải tin vào sự hanh thông tốt đẹp của thời vận để mạnh dạn tiến tới làm những điều ích lợi cho xã hội, tức là tập đức Dũng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn phải duy trì đức Trí để cẩn thận, suy xét phải quấy, tính tóan tiên liệu đối với mọi vấn đề chứ không vì sự hanh thông mà lơ là, a dua vọng ngọai , để có những lúc phải chấp nhận" bằng vong" [mất bạn]. Ngược lại, để duy trì được Nhân Trí Dũng, phải quay về nội tâm để học đức Kiền: "Chung nhật kiền kiền để tự cường bất tức", và làm gì cũng phải giữ đúng đạo Trung.

Đến hào Cửu Tam: Vô bình bất bí, vô vãng bất phục, gian trinh vô cữu, vật tuất, kỳ phu, vu thực hữu phúc: [Không có gì bằng phẳng mà chẳng nghiêng lệch, không có sự ra đi nào mà không trở lại, gian nan mà chính bền thì không lỗi, đừng xót xa, hãy thành tín, có phúc cả trong sự ăn uống]. Thời Thái đã đi qua gần nửa đường, hanh thông vẫn còn đó, nhưng phải gặp trắc trở vì đó là tính chất bất biến của cõi Nhị nguyên, không có gì là tuyệt đối nơi chốn hữu hình. Khó khăn lúc này đã bắt đầu manh nha. Cho nên hơn lúc nào hết, phải giữ cho được sự chính bền (Nhân Trí Dũng). Làm được như vậy, ơn Trời vẫn được hưởng.

Muốn giữ được chính bền, con người phải sáng suốt tâm linh. Cho nên phải biết tu tâm dưỡng tánh, thì dù không lợi lộc vật chất, không tính tóan, con người vẫn xích lại được gần nhau một cách tự nhiên do niềm tin thành thật với nhau như hào Cửu Tứ: Phiên phiên, bất phú, dĩ kỳ lân, bất giới dĩ phu [Lanh lẹ, chẳng giàu mà kết thành hàng xóm, không chuẩn bị mà đã tin nhau ]. Đây là kết quả cao nhất của thời Thái: chinh phục được lòng người mà không phải bằng vật chất của cõi nhị nguyên, mà bằng tình cảm và đức độ thể hiện qua hào Lục Ngũ: Dĩ chi nguyên cát, trung dĩ hành nguyện dã [được phúc rất tốt, lấy đạo Trung để thực hành ý nguyện]

Nhưng thế gian này không có gì tồn tại vĩnh hằng và tuyệt đối. Có sinh tức có diệt, có thành tức có bại. Đó là qui luật của cõi hữu hình. Thời Thái rồi cũng sẽ qua đi, cho nên hào Thượng Lục, Tiểu tượng viết: Thành phục vu hoàng, kỳ mệnh lọan dã [thành lũy hóa ra rào cạn, mệnh lệnh rối loạn] thành lũy bị sụp đổ xuống hào rãnh. Nhưng nếu hiểu được Thiên lý, giữ được đạo Trời là Trung Đạo bất biến, tức là không làm những điều đi ngược đạo lý thì dù trong mọi hòan cảnh, con người vẫn sẽ vượt qua.

Tóm lại, học quẻ Thái để đừng đeo đuổi, chạy theo những gì gọi là tốt đẹp nơi cõi hồng trần, mà hãy chọn con đường Thiên Đạo để tương lai không còn Thái, không còn Bĩ, có nghĩa là giải thoát, trở về với Nhất nguyên, tức Đạo.

Rõ nét nhất là thời Hạ nguơn mạt pháp với sự lâm trần mở cơ tận độ của Đức Cao Đài. Thế giới vẫn còn đang ngập chìm trong màn đêm của thời Bĩ, nhưng đặc biệt đối với những ai đã giác ngộ, đặt trọn niềm tin vào Thượng Đế, sẵn sàng dâng hiến sở năng sở hữu cho đại cuộc cứu độ Kỳ Ba, là đã được bước chân vào vùng ánh sáng của thời Thái hanh thông an lạc.

-Người môn đệ của Đức Cao Đài muốn làm được sứ mạng cao trọng thiêng liêng đó, phải bước chân lên nấc Đại thừa, để nhận ra rằng quẻ Thái là con đường tâm pháp giúp người hành giả đi đến đích điểm của sự giải thóat, bởi vì Thánh giáo đã dạy:

"Khí Âm Dương hiệp nhứt

Lấy Khảm đắp Ly hào

Trở về Kiền Khôn quái

Là mối Đạo rất cao

Nghĩa là Âm Dương hiệp lại thành quẻ Thái, mà Thái là Hòang Cực Đại Trung; Âm Dương có hợp thì vạn vật mới sanh; thần khí có giao thi kim đơn mới kết; thần phải ngưng, khí mới tụ, mà thần lìa thì khí tán. Phép tu kim đơn, chỉ có thần khí mà thôi. Thần thì vô phương, khí thì diệu tán, nhưng luôn luôn khí theo sát cùng thần…" 1

Chính vì vậy mà Soán Truyện viết: "Nội dương nhi ngọai âm, nội kiện nhi ngoại thuận, nội quân tử nhi ngoại tiểu nhân" [khí dương ở trong mà khí âm ở ngoài, cương kiện ở trong mà nhu thuận ở ngoài, quân tử ở trong mà tiểu nhân ở ngòai]Thân xác con người về mặt y học, nếu mạnh khỏe, tức là ở trạng thái quẻ Thái, dương khí tàng ẩn tràn ngập bên trong, âm khí biểu lộ bên ngòai, tức nội tạng ấm áp, thân thể bên ngòai mát như Kiền ở nội quái, Khôn ở ngoại quái. Ngược lại, bên ngòai thấy sốt tức là người bị bệnh.

Kỷ nguyên Tam Kỳ Phổ Độ là chu kỳ cuối của vũ trụ sẽ đi vào sự bế tắc của quẻ Bĩ, nhưng sự giáng trần mở Đạo của Đức Chí Tôn, chính là ơn Trời đã bao trùm cõi thế gian này, cho nên cơ Đạo dù gặp nhiều khó khăn, dời đổi rồi cũng sẽ hanh thông. Con người hiểu được cơ duyên có một không hai đó để bước vào quỹ đạo an tòan của Đức Từ Phụ tìm phương tu hành, chắc chắn sẽ đắc quả, sẽ tìm thấy sự giải thoát tâm linh, vì đây là thời Thái, bước đầu mọi sự dễ dàng hanh thông, có tu có đắc. (Hào Sơ cửu)

Tu hành với Đức Cao Đài , là tu hành nhập thế, tự độ và độ tha: "chí tại ngoại dã". Việc tu hành là quay về luyện rèn Nhân Trí Dũng bằng công phu thiền định, nên phải giảm duyên đọan sự, tức: "bằng vong"

Nhưng tu hành thường có sự khảo đảo (cửu tam) , phải biết giữ tâm chuyên nhứt thì sẽ được Đức Thượng Đế chở che.

Được như vậy, con người sẽ được thung dung tự tại giữa cõi đời hậu thiên vật chất, dù không sang giàu, thế lực, vẫn nói được người nghe, vẫn cảm hóa được người một cách tự nhiên để tạo thế nhân hòa,(Lục Tứ) thực hiện được tâm nguyện của mình( Lục Ngũ)

Tuy nhiên, phải cảnh giác ở phút cuối cùng cuộc đời , đường tu sẽ vẫn còn nhiều khảo đảo, và nếu không biết áp dụng quẻ Thái vào vào việc tu luyện để đoạt ngôi Hoàng Cực, tức là thóat ra ngòai vòng cương tỏa của qui luật hậu thiên nhị nguyên đối đãi thì việc tu hành chỉ là công dã tràng xe cát biển đông (Thượng Lục)
Hồng Phúc

Quẻ Địa Thiên Thái
Bức tranh cổ minh họa một vị quan đang bắc thang lên vầng quế nguyệt là ý nói sự thăng tiến trong quan trường; thi cử; một con hươu ngậm tấm thiếp báo tin vui hoặc có lộc tài mang đến, một cậu bé đang ngồi trên mây là vị thế vinh hiển sáng ngời và khá bất ngờ, nhưng từ tầm cao ấy mà càng cần phải chú ý củng cố chăm lo nền tảng gốc thực sự vững chắc dưới mặt đất. Trời bao giờ cũng hướng lên trên còn đất bao giờ cũng hướng xuống dưới, đó là biểu thị sự thống nhất tồn tại của sự vật đối lập và sự vững chắc của luận thuyết dịch lý.
Trong quan hệ xã hội, đây cũng là hình thái vị trí cha con, chồng vợ, kẻ mạnh, kẻ yếu, cấp trên cấp dưới, bạn bè đồng nghiệp mà nếu có biện pháp điều hòa hợp lý đúng vị trí và vai trò, không có sự xáo trộn thì muôn sự đều thuận lợi. Thái cũng là một quẻ dịch chỉ sự khoan hòa, vững chắc dễ liên tưởng tới những công trình kiến trúc bề thế, chắc chắn trong bối cảnh yên bình và phồn vinh. Thái còn có nghĩa là hanh thông, một trạng thái được thỏa mãn nên mang triệu hỷ báo tam nguyên (tin vui báo đỗ giải nguyên). Theo Thuyết văn, Thái là cực lớn, bền vững nên tạo ra yên ổn thái bình và muốn thế thì ai chịu trách nhiệm việc người nấy, anh hùng phải có đất dụng võ thì mới phát huy được năng lực tuyệt đối của bản thân. Sách phong thủy cổ có chép: Đất thánh hiền nhiều đất ít đá, thanh tú tao nhã; Đất tiên phật nhiều đá ít đất, cổ quái, xa xăm. Đó là bởi thánh hiền là người nhập thế, coi thanh tú là cái đẹp, thường sống ở nơi có nhiều cây xanh. Tiên phật là bậc xuất thế, thích ẩn cư nơi núi cao rừng thẳm. Từ đó rút ra kinh nghiệm người và vật cùng loại thường tụ tập ở gần nhau.
Chuyện cũ kể, có lần vua Tề Tuyên Vương ngạc nhiên hỏi Thuần Vu Khôn, người trong một ngày tiến cử với vua bảy vị hiền sĩ rằng: “Cả trăm đời mới tìm được một thánh nhân, nay thánh nhân ở đâu ra nhiều vậy?”. Thuần Vu Khôn nói: “Muông thú cùng loài thường quần tụ một vùng. Nay bệ hạ hỏi thần về hiền sĩ có khác gì ra sông lấy nước, dùng bùi nhùi đánh lửa. Thần liên tiếp tiến cử bảy hiền sĩ với Đại vương là còn ít đấy”. Như vậy có thể thấy việc tìm ra dòng sông để biết được liệu nước sông có sử dụng được quan trọng hơn nhiều việc ra sông gánh nước. Màu sắc của quẻ Thái là trắng đen khá nền nếp, nho nhã tạo ra một trật tự trong yên bình và phổ biến khắp nơi. Dựa trên hệ quả: Không có gì bằng mãi mà không nghiêng, đi mãi mà không trở lại, ta có thể rút ra kết luận về những điểm cần chú ý sau khi đã gặt hái thành công như sau:
1. Tuy ta đã giành thắng lợi bước đầu trong cuộc đời hoặc sự nghiệp nhưng không thể say sưa ngủ quên trong chiến thắng mà cần phải đoàn kết các lực lượng, củng cố lòng tin để bảo vệ an toàn thắng lợi đã giành được, thường đằng sau những thành công cũng như mặt sau của tấm huy chương không chắc bao gồm những điều tốt đẹp và sự yên ổn vì vào lúc đó, con người ta hay nảy sinh tư tưởng xả hơi, hưởng thụ cho bõ những ngày gian khó thì chính lúc đó tai họa xảy đến. Các triều đại phong kiến trong lịch sử Trung Hoa hay Việt Nam và bất kỳ nước nào trên thế giới thường sa vào vết xe đổ ấy và cùng chung số phận, tuy diễn biến chi tiết khá đa dạng như: Sau thiến thắng vẻ vang là mở tiệc ăn mừng vài ngày, ban thưởng chia đất, phong tước phong hầu, xây dựng cung điện mới, miếu thờ, lăng tẩm và ăn chơi hưởng lạc liên miên, cuối cùng thì dân quá khổ sinh ra cướp bóc, bạo loạn khởi nghĩa rồi triều đại vinh quang đến đâu cũng suy tàn, sụp đổ. Từ sự kiện lớn trong lần sử mà so với những việc nhỏ hơn trong cuộc sống cũng chẳng khác nhau là mấy, vậy nên ghi nhớ rằng: Mỗi một thành công là kết thúc một trang sử để mở ra một trang mới trong cuốn sử dày hàng trăm trang vì thế một trang sách chưa bao giờ là cả một cuốn sách!
2. Sau khi đã có vị thế hoặc thành tựu nhất định, vẫn phải giữ vững sự quyết đoán, xử sự đàng hoàng bao dung, rộng lượng để thúc đẩy sự nghiệp tiến tới và cách thể hiện tốt nhất là vừa trung thành với mục tiêu đã định, vừa phối hợp nhu cương. Người đứng đầu phải biết học hỏi kiến thức mới, đoàn kết với cấp dưới, giữ hòa khí, có nguyên tắc, không vị tình riêng. SáchDịch kinh tập chú viết: “Quân thần đồng đức, thiên hạ thái bình, hiền nhân quân tử xuất hiện vào lúc quốc gia cần người. Phải có dũng khí của kẻ vượt sóng, quyết chí làm nhiệm việc cần làm, không thể vì cái trước mắt mà quên cái lâu dài. Nếu kết bạn được với người có chí gần gũi với mình, không thiên vị bè đảng thì hợp đạo trung, cùng nhau đạt tới sự an thái, trên dưới kết giao, ý chí tương đồng, hoàn toàn thành công trong sự nghiệp và cuộc sống”.
3. Theo nguyên tắc của biến dịch thì vật cùng tất phản, một khi đạt tới thái bình thịnh vượng cực thịnh sẽ bế tắc, sự nghiệp lên tới đỉnh cao sẽ lâm nguy, sự vật phát triển đến tột cùng sẽ bắt đầu suy thoái như trạng thái lên tới đỉnh núi, xoay sở cách nào cũng chỉ đi xuống. Vẫn thường nói: Ở đỉnh cao của thành công càng phải thấm nhuần nguyên lý cực tất phản để chuẩn bị khám phá mới, mở rộng hoạt động hoặc thay đổi phương pháp, tìm thêm mục tiêu mới thì sự nghiệp mới có thể có cơ hội tiến lên được. Trong lĩnh vực kinh doanh ngày nay có thể thấy rõ điều đó khi các tập đoàn mốt thời trang có tiếng lâu năm quay sang sản xuất thêm cả thuốc lá, nước hoa, nữ trang; các công ty tài chính chứng khoán lại đầu tư xây dựng, làm công viên giải trí. Ngay cả trong lĩnh vực văn hóa xã hội, các diễn viên điện ảnh nổi tiếng đều có xu hướng mở shop thời trang, áo cưới, thẩm mỹ viện; các người mẫu đắt giá trên sàn catwalk chuyển sang làm ca sỹ, còn ca sĩ kiêm M.C trong các show truyền hình. Phải chăng đó cũng là hiện thực của hệ quả hết phẳng rồi lại nghiêng?
4. Nhiều người khi đã có được chức danh, địa vị rồi vẫn tính toán, suy nghĩ sâu xa về sau chứ không ỷ vào ánh hào quang của chiến thắng để hớn hở vui sướng dài dài cho đến lúc thất bại. Trong Tam quốc, Tào Tháo vì quá chủ quan khinh địch mà đại bại trong trận Xích Bích; Lý Tự Thành chiếm được Bắc Kinh lật đổ vương triều Minh nhưng vội lóa mắt vơ vét của cải, hưởng lạc nên quên mất kẻ thù là quân Thanh vẫn còn đó nên bị tiêu diệt. Năm 1949, khi giải phóng Bắc Kinh, Mao Trạch Đông nhắc cho toàn quân nhớ lại bài học lịch sử này để làm gương. Năm 1954, trước khi quân ta vào tiếp quản Thủ đô Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã căn dặn các đơn vị bộ đội thực hiện đúng 10 điều ghi nhớ, tránh cạm bẫy vì: Ở thành thị tình hình phức tạp, có nhiều sự quyến rũ làm cho người ta mê muội, trụy lạc…
5. Khi sự nghiệp đang vẻ vang, thành đạt càng nên khiêm tốn chiêu hiền, đãi sĩ, tuyển dụng người tài, nhằm củng cố lực lượng để bảo toàn thành quả lâu dài, tránh kiêu căng tự mãn cậy thế có công. Chuyện Đông Chu kể: Sau khi họp mặt với vua Tần, nhờ công của Lạn Tương Như ép vua Tần ký hòa ước thắng lợi, vua Triệu phong tước thượng khanh cho Tương Như khiến cho tướng Liêm Pha ấm ức vì nghĩ rằng mình là đại tướng đã vào sinh ra tử nơi trận mạc lại không bằng một quan văn lẻo mép thì quá bất công. Từ đó, Liêm Pha tuyên bố tìm mọi cách làm nhục Tương Như cho bõ tức. Nhưng Tương Như luôn tránh gặp, mỗi khi ra đường thấy bóng Liêm Pha từ xa là ông bảo phu kiệu tránh đi đường khác. Việc này khiến nhiều bạn bè, môn khách của Tương Như cho rằng “ông nhát gan, quá sợ hãi”. Tương Như giải thích rằng; Tần vương mà ông còn không sợ thì sợ gì Liêm Pha, chẳng qua ông chịu nhún là vì nước Triệu, nếu hai người trụ cột đấu với nhau thì đại sự lâm nguy. Hiểu ra, Liêm Pha đã tự cởi áo, để trần đến tạ lỗi với Tương Như.
6. Khi sự suy thoái đã bộc lộ rõ ràng, sức người không thể cứu vãn được cũng không nên níu kéo, vì dù gì con người không chống được quy luật tự nhiên. Lúc rơi vào tình thế đó phải biết khai thác mặt có lợi nhất, giảm nhẹ tổn thất tới mức thấp nhất là thượng sách, còn chầy bửa làm liều sẽ thất bại hiển nhiên. Trong lịch sử, những cuộc cải cách cho dù tích cực, vào giai đoạn cuối các triều đại đang lụi tàn không bao giờ đạt kết quả. Điển hình là những cách tân, sáng tạo của cha con Hồ Quý Ly khi lấy ngôi vua Trần không thể lâu dài được, cuối cùng vẫn thất bại và mất nước vì quân Minh. Trên thương trường ngày nay cũng vậy, nếu sản phẩm nào đó tỏ ra lỗi thời thì cần điều chỉnh sản xuất thay đổi cách thức và kỹ thuật công nghệ để đáp ứng thị hiếu xã hội. Nếu cứ cố sản xuất thủ công rồi ỷ vào quảng cáo rầm rộ kiểu gì cũng vẫn phá sản, ấy là do nhu cầu xã hội thay đổi theo chu kỳ xoáy trôn ốc không thể cưỡng lại được
Tác giả bài viết: theo Kinh Dịch

Thứ Năm, 25 tháng 8, 2011

Trả lời bác Hà Uyên

Cảm ơn anh Lequangtct, theo như Tôi đọc sách, thì người đời sau có hai cách lập quẻ, hình thành hai phái, đều xuất phát từ phương pháp lập thuyết của ngài Lý Hư Trung. Không biết là Anh đang theo trường phái nào lập quẻ?
Mong được Anh dẫn giải cụ thể hơn một bước nữa, về cách thức lập, gieo quẻ quẻ từ hai ví dụ trên thì tốt quá.
Hà Uyên

Chào bác Hà Uyên!
THưa bác, vấn đề bác hỏi tôi xin có đôi lời : Kể ra thì không nên trả lời mới phải phép. Vì tôi biết, nếu mình trả lời là đã "Múa Rìu qua mắt thợ". Song không trả lời thì cũng hơi áy náy, cho nên tôi xin mạo muội, có gì không phải mong bác bỏ qua: Về các phái của dịch thì nghe nói có nhiều bác ạ: Phái khảo chứng, Phái Chiêm bốc, Phái Thực hành, Phái Tượng số, Phái Nghĩa lý... Riêng tôi thì kết hợp bác ạ. Vì theo tôi, Chỉ biết tượng số mà không biết nghĩa lý thì không đoán được quẻ và ngược lại hiểu nghĩa lý mà không biết tượng số cũng khó mà giải đươc quẻ bác ạ.
Còn cách lập quẻ thì như trên tôi đã nói là có rất nhiều cách: Theo tượng vật, theo thời gian, theo cách gia số... nói chung là gặp gì thì gieo nấy. Có khi thì lập theo âm thanh, khi thì theo phương hướng, có khi theo nét chữ, khi thì lập theo đỗng tĩnh của trời đất như gió, mây, sấm chớp, cũng có khi bất chợt nhìn thấy cái gì là tóm ngay để gieo quẻ,... tuỳ từng sự việc cần đoán, nhưng nói chung theo cách nào cũng đều phải lập thành quẻ thì mới giải được.
Còn việc đoán quẻ thì cũng vô vàn lắm. Có khi theo Tượng, có khi theo Số, có khi theo Thể - Dụng, có khi theo Thế - Ứng, có khi theo hào động, có khi theo Ngôi quẻ, Ngôi hào, ngôi sang hay ngôi hèn, ngôi cao ngôi thấp, Chính vị hay không Chính vị, Có khi theo Lục thân, Lục thần, cũng có khi theo Ngũ hành sinh khắc 4 mùa suy vượng, có khi theo Thời của hào, Thời Sơ hay Thời Mạt... nhưng nói chung là cũng phải căn cứ lời Từ của quẻ, của hào trong các sách mà Thánh nhân để lại.
Bên cạnh đó , để có cơ sở cho Suy và Luận còn phải bàm theo Thuyết Âm dương Ngũ hành của Đổng Trọng Thư, Thuyết Nạp giáp của Kinh Phòng tiên sinh (đời Hán).
Người xưa nói: Có tượng là lập được quẻ, có quẻ sẽ có tượng, có tượng thì có Lý. Phải vậy không bác.
Thưa bác! Trên đây là vài lời chia sẻ, bể học mênh mông mà kiến thức của bản thân tôi thì còn vô cùng hạn hẹp bác ạ. Có gì không phải mong bác và các bạn bỏ qua.
Tôi nhớ Cụ Phan Bội Châu cũng đã từng dạy: Đốc thực - Huy quang. Tôi cũng đang cố gắng mà cảm thấy chưa nhằm nhò gì bác ạ.
Thưa bác:
- Còn về việc tôi hỏi bác về 2 quẻ dịch Nhân mệnh thế nào rồi ạ. Mong bác cho ý kiến phản hồi.
- Bác là người đọc nhiều hiểu rộng, có tài liệu nào hay và thiết thực với môn Bốc dịch xin bác post lên Diễn đàn một ít cho anh em tham khảo.
Rất mong bác chiếu cố! Kính bác!
Quang Đạo (Nghệ An)

Số và Mệnh

Chào các bạn! 
Trở lại bài trên, trong Dịch vĩ chú, tác giả Trịnh Huyền có tính được số trời và số đất. Số trời là 25, số đất là 30, vậy con người ta có số không nhỉ?
Xin thưa là có đấy. Số và Mệnh mà. Chả thế mà nhân dân ta thường nói: Vâng, cái số nó vậy; ông ấy số sướng, chị ấy số vất vả, ông ấy đến số rồi, tới số rồi,; mệnh cùng Số hết là lên chơi Thiên đàng. Số mệnh là trời cho, số có nặng nhẹ, nhưng quan trọng hơn là cấu trúc của số có đẹp không, tương sinh tương hợp hay tương khắc tương xung, nếu bị xung khắc hay cấu tạo lộn xộn thì người đó thường chìm nổi, linh đinh vất vả, nghĩ và làm một đàng thì kết quả lại đi một nẻo, thật chẳng mấy khi thuận theo ý mình. Đành vậy, âu cũng là số phận, nhưng trong thực tế những người số trời nhiều hơn bt thì thường mạnh bạo, cương cường, những người số đất nhiều quá thì thường nhu thuận và hay bị bệnh ở phần bụng, phần âm, nhất là phụ nữ, vì nữ đã thuộc tính âm nay lại thêm âm nữa cho nên chỗ nào liên quan đến âm là thường sinh chuyện (bộ phận sinh dục, tử cung..) nhức mỏi lưng, chân và ngược lại người có số trời nhiều quá cũng không phải là tốt. Đẹp nhất là trời đất, âm dương hài hoà, cuộc sống bình an.
Lấy ví dụ một người sinh vào lúc 8 giờ ngày 7/7/2007, trời đất đã định cho người ấy số 38; có lời dự đoán như sau:
"Nhất sinh cốt nhục tối thanh cao, Tào nhập học môn tính danh tiêu, Đại khán niên tương tam thập lục, Lam y thoát khứ hoán hồng bào"
Nghĩa là: Một đời xương cốt thanh cao nhất, đi học sớm tên chiếm bảng vàng, Đến năm ba mươi sáu tuổi,Áo xanh được đổi thành áo bào đỏ. 
Thật là đẹp phải không các bạn. Các bạn thử xem con, em mình có đứa nào sinh vào đúng thời điểm đó không? Nếu có thì xin chúc mừng nhé!
Tạm dững đã nhé! Thân ái!
Lê Quang
Địa chỉ Email: lequang306@gmail.com
Cảm ơn bác lequangtct. Những gì bác lequangtct luận đều đúng cả ạ.
Vậy là Nắng Thủy tinh vẫn chưa thoát ra khỏi cố nhân sao?

Bài trả lời độc giả: Nghĩ về môn bốc dịch

Thưa bác Hà Uyên! Còn về vấn đề bác hỏi, tôi xin trả lời như sau: Thú thật với bác là tôi không có thời gian và điều kiện đọc nhiều, nói chi đến đọc đủ và đọc hết hả bác. Bể học mênh mông, sách thì nhiều bao la vạn tượng, chỉ riêng những sách nói về dịch, mệnh lý, toán mệnh và những vấn đề liên quan người ta đã thống kê được trên vạn cuốn, (và chỉ tính đến thời nhà Tống, cách đây khoảng ngàn năm số sách đó cũng đã có hàng ngàn cuốn). Kinh dịch là một trong Ngũ Kinh của Trung Quốc thời cổ (Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân thu). Đã có nhiều trường phái và nhiều tác giả nổi tiếng viết, bàn luận, chú giải. Về sách mệnh lý chiêm đoán thì nhiều lắm: Nào là Liên sơn dịch, Quy tàng dịch, Kinh dịch, Chu dịch, Mai hoa dịch, Văn Ngôn, Thuyết Quái, Chu dịch chú, Quỷ cốc tử toán mệnh, Thich thiên tuỷ, Toán mệnh giảng nghĩa đại toàn, Mệnh lý tinh giải, Ngũ hành tinh kỷ, Thiên hạ đệ nhất mệnh lý, Toán tam thế,, Hậu Hán thư, Tăng san bốc dịch, Tăng bổ bốc phệ, Bốc phệ chính tông, Chu dịch cửu nguyên, Uyên hải tử bình, Tam mệnh thông hội, Hoàng kim sách, Dịch thiên kim, Thiết bản thần số, Kỳ môn độn giáp, Thái ất thần kinh, Toán Hà lạc …

Nói chung là nhiều lắm bác ạ, không thể nào đọc hết và kể hết được, tôi nghĩ may ra thì chỉ có những người như bác và các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp thì mới có thể có điều kiện đọc hết và đọc đủ (mà tôi e cũng khó phải không bác).

Tiếp theo:
Chào bác: Riêng mấy quyển bác hỏi thì tôi cũng có nghe qua, Tham đồng khế của Nguỵ Bá Dương đời Hán, hình như có 3 thiên thì phải: Ngự chính, Dưỡng tính, Phục thực, có ý khuyên ta nên sống hợp với lẽ trời. Nghe nói Tham đồng khế cũng có nhiều bản có nội dung khác nhau bác ạ, và hình như có bàn về cả chuyện Luyện đan nữa. Còn Dịch vĩ chú của Trịnh Huyền cũng thuộc đời Hán, là đệ tử của Mã Dung, Nó được chép trong Tứ khố toàn thư, ông có công chú giải các quẻ dịch và cách tính số trời số đất (số trời 25, số đất 30, tổng 55), và hình như ông cũng đồng quan điểm Vô vi của Lão Trang phải không bác. Nói thật với bác, tôi chỉ thường đọc những quyển có tính cách ứng dụng cao để phục vụ cho môn bốc dịch, vì tôi thấy Bốc dịch rất nghiệm và nhiều khi ứng ngay trước mắt. Vả lại tôi học là cốt để ứng dụng váo cuộc sống bác ạ. Riêng các bộ sách trong Tam đại kỳ thư của Trung quốc như Chu dịch, Mai Hoa dịch, Ma Y Thần tướng thì tôi đã tìm đọc, tôi cũng có đọc thêm các sách dịch của Việt Nam như Kinh dịch - Đạo của người quân tử của Nguyễn Hiến Lê, các sách của Phan Bội Châu, của Thu giang Nguyễn Duy Cần… để hiểu thêm lời bình các quẻ các hào, và để phục vụ cho môn bốc dịch tôi có đọc qua Bát môn, Bát tự, Tử bình, Tử vi … nữa bác ạ, mà cũng là mang tính chất tham khảo thêm thôi.
Hơn nữa Cụ Khổng ngày xưa cũng đã dạy: "Cuộc sống vốn hữu hạn, tri thức thì vô hạn. Dùng cái hữu hạn đuổi theo cái vô hạn là cực kỳ nguy". Nên cũng chẳng dám tham bác ạ.
Thưa bác! Bác xem để phục vụ cho môn bốc dịch được tốt hơn, có quyển nào hay và thiết thực xin bác post lên diễn đàn cho anh em tham khảo. Mong bác chiếu cố. Rất cảm ơn bác!
Kính!

Nghĩ về việc gieo quẻ và luận giải các quẻ Dịch

JFF123 đã viết:
Như vậy có phải những người theo trường phái Bốc dịch sẽ đề cao vai trò của lục hào hơn ý nghĩa của quẻ ko ạ?

JFF trình độ còn non nớt, mong được các anh chị khác chỉ bảo thêm.
Chào bạn JFF!
Như bạn biết đấy, Việc bấm quẻ và xem xét luận đoán quẻ Dịch rất phong phú bạn ạ, lập quẻ kiểu nào cũng được, từ con chim trên trời cho đến con cá lặn dưới nước, hoặc giả có một làn gió thoảng qua, gieo theo ngày giờ tháng năm sinh hoặc tuỳ theo sự việc xảy ra thời điểm nào và bấm quẻ vào giờ nào, rồi theo phương vị, và theo v.v ... người ta đều có thể lập quẻ và đoán quẻ. Về đoán quẻ thì chắc bạn cũng đã biết, cũng có nhiều cách lắm, từ tượng quẻ, tượng hào, tên đẹp, tên xấu, rồi âm dương ngũ hành sinh khắc chế hoá, rồi vượng suy tứ mùa, động biến, rồi vị trí các hào.v.v và .v.v. nhưng tựu trung lại là Suy và Luận làm sao cho hợp lý trên cơ sở âm dương, ngũ hành sinh khắc, biến hoá, suy luận cho chính xác, vì dù sao kết quả đòi hỏi cuối cùng vẫn phải là Đúng. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý mà.
Có khi lập quẻ xong rồi người đoán vẫn còn phân vân, cũng có khi mời lập được nửa quẻ linh tính đã mách bảo là đúng. Suy luận thì vô vàn lắm bạn a, Dịch là Biến là động, có bao giờ đứng yên cho nên phải tuỳ thời. Chính vì thế , dịch đã tạo cho ta một hành lang rất rộng trong việc lập và đoán quẻ. Ví dụ xưa: Cụ Thiệu Khang Tiết trong Mai Hoa dịch khi xem vườn hoa mẫu đơn đẹp đã thốt lên, hoa đẹp thế này mà tiếc thay, giờ Ngọ trưa mai sẽ bị ngưa xéo nát, quả ứng nghiệm thất, nhưng giả cụ Khang hoặc ai đó lại thấy một vườn Mẫu đơn đẹp lại gieo được đúng quẻ ấy, và lại theo cách giải ấy, lại nói trưa mai hoa bị ngựa xéo nát, liệu có trúng không? Chắc là không. Trong các sách Dịch có nhiêù ví dụ như thế lắm. Cho nên xem Dịch là phải biết tuỳ cơ ứng biến. Trên Diễn đàn tôi có đưa câu chuyện Cha con Lí Thuần Phong cùng xem quẻ cho một người phụ nữ qua chi tiết Quạt rơi, mà môi người đoán một ý, mặc dù họ đều là những người giỏi môn bốc dịch. Cho nên túm lại là phải kết hợp nhiều yếu tố khi luận giải, nếu không muốn nói là tất cả.
Xem quẻ Dịch cũng giống như chiêm ngưỡng một người đẹp, ta xem họ đẹp ở chỗ nào, có chi tiết nào bất hợp lý, có cái nào phá cách, cái nào là vẻ đẹp bên trong, cái nào là vẻ đẹp hào nhoáng bên ngoài... xem quẻ dịch cũng vậy, xem cấu trúc hợp lý không, có thuận không, thế ứng có đúng vị không, quẻ Nhân mệnh hợp lý thì người đó sướng, thong dong, còn bất hợp lý thì cả đời long đong vất vả. Ví như Trên mâm có mấy món Kim, mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ, khi ta sinh ra, ông Trời đã bỏ vào Tứ trụ (năm, tháng, ngày, giờ sinh) cho mỗi người một ít chính khi đó, có nắm nhièu, nắm ít, có khi theo trình tự Hoả rồi đến Thổ đến Kim, cũng có khi Hoả đến Kim, đến Mộc..., Cái mà ông ấy ban cho chính là Thiên mệnh, là số mệnh của ta rồi, không thể nào thay dổi được, có chăng là những người học Dịch, hiểu Dịch biết vận dụng và phát huy những cái mình có (phẩm chất) để nhân lên sức mạnh (chính nghĩa) và chắt chiu những yếu tố mình còn ít, thiếu và nuôi dưỡng nó để nó đi theo mình cùng năm tháng, nhằm [b]tìm cát tránh hung, vui vẻ với đời. Người xưa nói: "Minh triết bảo thân" là chỗ đó, và theo tôi ý nghĩa việc học Dịch với từng người cũng chính là chỗ đó. Nói cách khác là Biết Hài hoà giữa Thể và Dụng, là phát huy và vận dụng tốt những cái mình có, Tuỳ thời mà hành động, thời hành tắc hành, thời chỉ tắc chỉ. Còn việc xung khắc giữa các hành trong ngũ kim thì thật khó tránh, ta chỉ có thể biết trước ở thời điểm nào để phòng và hạn chế nó thôi. Có câu rằng:
Khắc đâu chỗ ấy phải sầu.
Sinh đâu chỗ ấy héo rầu lại tươi
Ngẫm hay muôn sự tại trời.
Trời kia đã bắt làm người có THÂN

Nói như Cụ Nguyễn thật chí lý. Vài lời chia sẻ, kiến thức hẹp hòi, có gì không phải kính mong các bác bỏ qua.

Thứ Năm, 14 tháng 7, 2011

Xem gia sự

XEM VỀ GIA SỰ .
..........
Luận xem một quẻ cửa nhà,
Nội ngoại vượng tướng: an hoà khỏi lo!
Sinh xuất: của chẳng đọng cho
Sinh nhập: của tới chẳng lo tiền tài,
Khắc xuất thì chẳng sợ ai,
Khắc nhập không bệnh thì tai(ương) phiền lòng!
Nội tù, ngoại vượng : làm(nhà) xong,
Ở ăn tuy thiếu, thoả(mãn) trong gia đình,
Ngoại tù, nội vượng chẳng lành,
Ao chuôm, vườn tược nhà mình hoang vu.
Mình ở nhà ngoài(quẻ ngoại) đấy ư?
Trong bị ngoài thù(khắc) thì sự chẳng xong,
Nếu như mình ở nhà trong(quẻ nội)
Chẳng nên gặp quẻ mà trong sinh ngoài!
Quẻ Phản bất ổn hỡi ai!
Quẻ trong bị Phản nhà thời bất an!
Xem hào động để luận bàn,
Lục hào đều tĩnh: bình an cửa nhà,
Trùng động là sự đã qua,
Giao động hay dở ắt là đến ngay.
Loạn động cũng phải nói ngay:
Nạn tai, rắc rối, của đâu có nào?
Nếu cần xét sự thấp cao,
Luận xem Thế Ứng hai hào trước sau,
Nếu mà phát động hào đầu?
Trong nhà có trẻ ốm đau hiện giờ.
Nhị hào thê thiếp phải ngừa
Thân vong, hoạ hại chẳng chừa cho ai!
Cho nên đề phòng động thai,
Sảy người, tốn của chẳng sai đâu mà!
Còn như thấy động hào ba,
Đích thị huynh đệ khó qua quẻ này,
Động hào nằm bẹp là đây,
Lao đao đau ốm nhiều ngày mới qua!
Tử động môn hộ thất gia
Quan lâm hào ấy trong nhà hoạ tai
Của mất, người phải ra ngoài,
Tổn hao tài vật chẳng sai bấy chầy,
Hào bốn động đáng lo thay,
Cửa nhà gia sự thường hay tổn phiền,
Trong người lại chẳng được yên,
Bệnh cũ gây phiền não có lành đâu!
Ngũ động thì kỵ bò trâu,
Lâm Kim thiệt hại bấy lâu còn dài,
Lục động kinh doanh tán tài,
Bán buôn tổn thất, trong ngoài gian truân.
Còn thêm kỵ động mộ phần,
Thiên di, cải táng đôi lần mới xong...

Có Hàm trì, Vũ lại bàn,
Nên phòng quan hệ nữ nam trong nhà,
Nhị lâm Kim động ấy là,
Việc công hay gặp rầy rà lôi thôi
Nhị(+) Phá động khắc thế rồi,
(+)Khắc Thân: tai hoạ đến hồi liên miên.
Nhị bị Thế- Nhật khắc liền
Âý là chỗ ở chẳng yên được rồi!
Nhị Quan quỷ hoặc Thê tài
Gặp thêm Long Quý lại thời Vượng- Sinh
Phù hợp Thế: ắt gia đình
Vui vầy, thịnh vượng thoả tình cầu mong.
Tài Phúc sinh vượng đã xong
Sinh hợp Thân, Thế: tốt trong đạo nhà.
Nhị bị xung phá ấy là
Vợ chồng khác ý khó mà đồng tâm
Hào tam có Quan quỷ lâm
ít chịu hương khói để tâm cúng thờ
Lâm Xà: chồng vợ ai ngờ:
Đồng sàng dị mộng bây giờ là đây.
Tam gặp Tài-Phúc- Long này
Cát thần phù trợ người nay an lành.
Tam Quỷ còn thêm Hổ tinh
Quan hệ chẳng lành, cãi vã thị phi
Tam Huynh: hao tán một khi
Tiền tài không tụ hay gì mà mong!
Tứ(hào bốn) Quỷ thêm Tước: khó xong,
Dễ có kiện tụng lung tung đây mà!
Tứ Quỷ chẳng yên cửa nhà,
Ngoài mà không kiện, trong là cãi nhau!
Tứ gặp Xà động trước sau,
Nhà không yên ổn nhắc nhau coi chừng!
Ngũ(hào năm) lâm Tử: yên, đáng mừng
Ngũ Quỷ: chồng vợ coi chừng sinh ly
Ngũ: con trai cả một khi
Lâm Quỷ- Xà- Hổ tới kỳ không may
Hổ động khắc ngũ: bệnh này
Nan y khó chữa, bó tay chịu rồi
Ngũ mà lâm Tử ai ơi!
Tương khắc phụ mẫu việc thời chẳng hay!
Ngỗ ngược, bất hiếu tính này
Tổ tông cơ nghiệp thì nay bỏ rồi!
Ngũ Thê là hào âm rồi,
Phụ nữ lấn át trông coi - hơn chồng!
Ngũ Tài hợp Quỷ tốt không?
Vợ nội trợ tốt an lòng hỡi ai!
Nếu Tài vượng: uy kém rồi,
Thậm chí là vợ chẳng thôi lấn chồng!
Hào lục bị Nhật Nguyệt xung,
Hoặc gặp Kim Quỷ nhà không yên lành.
Đói cơm rách áo rành rành
Lục Tài(có) Không nữa: vợ đành ốm đau
Nhật xung nói đến cũng rầu
Người vợ có thể phải chầu Diêm la!
Lục(là) Tổ, tứ(là) Mẹ, ngũ(là) Cha
Hào hai là vợ, hào ba huynh rồi!
Hào sơ con cái đấy thôi,
Hoặc xét thêm rộng là người làm thuê
Có Phụ vô Tử: đáng chê,
Gặp nhiều phiền não, nhà thì hư hao!
Phụ Tài Tử vượng thì sao?
Ắt là của cải kéo vào đầy dinh.
Long Hổ gặp, xét tình hình,
Nhà đó phú quý khang ninh vẹn toàn!
Phụ không nên động thì hơn
Nếu động phiền não tràn lan khắp nhà!
Phụ mẫu hoá Thê tài à:
Tiền nhiều của lắm, rõ là gặp may!
Tài động khắc Phụ lộ ngay,
Nhà không yên được, có ngày mất thôi!
Có Tử vô Phụ: eo ôi!
Cũng đều là xấu, nhà thời cô đơn.
Vô Tài, hữu Quỷ chập chờn,
Ốm đau, tai hoạ, thiệt hơn kéo vào.
Quỷ lâm Hổ, động thì sao?
Cũng là không tốt, vướng vào hoạ tai!
Quỷ trì Thế, gặp Thê tài,
Sinh trợ là tốt, nhà thời hanh thông!
Tài hoá Tử: khỏi cầu mong,
Của cải thì mỗi ngày đong một nhiều!
Ngày, giờ, năm tháng chẳng yêu(khắc)
Lâm Quỷ trì Thế: gặp nhiều nạn tai.
Quan quỷ nhập Mộ an bài,
(+)Hào Thân bị khắc: nhà ai suy rồi!
Hào Quỷ động sẽ thế nào?
Nếu không chế phục: ra vào kiện nhau!
Nhiều Huynh thì hẳn lòng đau,
Con cái ngỗ nghịch, thêm sầu cho ta
Nếu Huynh khắc Thế xét ra
Quẻ càng thêm xấu, dại mà chờ đây!
Tài Phúc quẻ thượng tốt thay!
Của cải cứ cất khỏi lo hao tài!
Tài có hợp, gặp Quỷ rồi,
Việc kết hôn thời chẳng được phân minh!
Tài Thế, Tài ứng hiện hình,
Gặp xung: người vợ dứt tình ly hôn
Tài xung Thế+ Ứng +động: buồn!
Người vợ chủ động ly hôn đó mà!

Tài bình, Tử xuất hiện thì,
Nhà đó đã đạt tới kỳ vinh hoa!
Tài vượng được sinh phù à?
Gia đình giàu có, môn gia thế thần!
Lưu tâm hào Tử rất cần,
Nếu mà vô Tử có phần tán hao(mất gốc)
Tử(gặp) Không: chẳng được đời sau,
Tử không hưng vượng dễ sầu: muộn con!
Tử lâm Nhật,động: héo hon
Mất quan mất chức chẳng còn mong chi!
Thê tài hoá Tử một khi:
Việc cầu quan chức gặp kỳ chẳng may!
Tử hình khắc Phụ thì nay
Toàn con bất hiếu làm rầy cha ông!
Tử sinh Tài +động: phải phòng
Thêm khắc Phụ mẫu: cha ông hại rồi!
Phúc lộc đất Trường sinh ngồi,
Lại sinh Thân, Thế: ấy thời đáng khen!
Gia đình nề nếp đã nên,
Cửa nhà bền vững, tiếng hiền đồn xa.
Tử ngũ tương hợp Phụ là:
Có con nối được nghiệp cha đáng mừng!
Quẻ Du hồn phải dè chừng,
Nhà này ắt hẳn đã từng ở, đi!
Du hồn hoá Quy hồn thì
Đi rồi lại được quay về là may.
Thế nhập Mộ, khó đổi thay(chỗ ở)
Nội, Ngoại hữu khí, rời đây là tuỳ(ý)
Nhị Quỷ lâm Thế một khi,
Nhà của người khác hoặc thuê đó mà
Ngũ hành lại xét bây giờ:
Vô Hoả: thờ cúng đơn sơ, tốt gì!
Vô Kim: của chẳng có chi,
Vô Mộc: đồ gỗ thường thì cũ thôi!
Hoả nhiều: phiền não nhiều rồi,
Thuỷ nhiều: nữ vượng, Kim nhiều: nữ đông!
Mộc nhiều: thanh tú chân dung,
Thổ nhiều: tiền bạc nhà ông cũng nhiều
Nội khắc Ngoại: ắt tiêu điều,
Liên miên bệnh tật, lắm điều buồn lo!
Tuế mà khắc Thế: nguy to
Quanh năm tai hoạ cứ mò đến thôi!
Nếu Nguyệt khắc Thế người ơi!
Liền trong tháng ấy hoạ tai kéo về!
Nhật mà khắc Thế cũng ghê,
Xấu nhiều, tốt ít nhiều bề lôi thôi!
Thế, Thân lâm Tuyệt, Không rồi,
Lại thêm Quỷ khắc: chao ôi hãi hùng!
Láng giềng tứ phía sống chung
Hào một: sau+trái ta cùng xét ra
Hào bốn: bên phải+trước mà,
Nếu lâm Tài Phúc Nhật là tốt thay!
Lâm Hung Quỷ Sát là gay,
Hàng xóm không tốt lại hay thối mồm!
Quẻ Du(hồn) hoặc Bát thuần thời
Tai hoạ liên tiếp nghĩ coi mà buồn
Âm hoá Dương: vợ ốm luôn,
Dương hoá Âm ấy chồng buồn hạn tai
Huynh động: chồng vợ xung hoài,
Phụ động hào lục: con thời đáng lo!
Tử vượng, động đem vui cho
Còn Quan quỷ động phải lo vạ làng
Quỷ+ Nhật, Nguyệt, Long,Quý bàn:
Lâm Trạch, Thân, Thế: có quan tước rồi.
Thanh long lâm Thuỷ, Mộc Tài,
Của nhiều, vợ tốt hẳn ai vui lòng
Quý, Long lâm Trạch bõ công
Nhà to hay nhỏ cũng trong cát tường
Long ở quẻ nội: đáng thương
Không(hào) Tài: trước khá sau thường nghèo đi!
Long ở quẻ ngoại ấy thì
Không Tài: ngược lại trước suy sau giàu.
Long lâm Nguyệt kiến cũng mầu
Hôn nhân, thai nghén thêm phần mừng vui!
Long lâm Tài, Tử (tốt) hơn người
Tước lâm Quỷ động ắt thời kiện nhau.
Tước(ngộ) Không, Tử(gặp) Tuyệt đến chầu,
Việc quan có hoạ bỗng đâu kéo về.
Tước lâm Nhật, Nguyệt động thì,
Dễ có hoả hoạn, phải đề phòng thôi!
Tước nội(quẻ) động: thị phi rồi
Tước Quan ngoại động: mừng thời văn thư
(câu) Trận Tài hại nữ bây giờ,
Trận Nguyệt gặp Quỷ nghi ngờ chuyện chi?
Ngoại động chẳng làm được gì,
Nội động là kỳ Thổ địa không yên.
Trận, Tài, Nhật, có Long thêm
Ruộng vườn phát triển, của tiền phồn vinh
Trận Nhật(phù) vượng địa hữu tình
Thì tăng đồng ruộng cho mình ai ơi!
Xà ở hào bốn động rồi,
Trong nhà ắt thời quái dị xảy ra
Xà nội động: trẻ hoặc là,
Người làm bỏ trốn thế mà không hay.
Quỷ Xà ngoại động tai bay
Đề phòng đạo chích nó hay đục tường.
Xà Nguyệt kiến: việc bất thường
Xà lâm khắc Thế lại thường ngủ mê
Hay có ác mộng kéo về,
Khắc ứng: mẹ hiền giấc ngủ không yên
Hổ + Tử: Chủ khó an toàn
Hổ (hào)tam: nhà có người làm tăng ni
Hổ+Niên+Nhật+Nguyệt một khi
Trong nhà gặp kỳ có việc bi tang
Hổ(khắc) thương Long: thiếp mất chàng
Hổ Quỷ phát động, hoạ phang người nhà
Hổ lâm Huynh Quỷ đoán ra
Ngôi nhà đó xấu, ai mà làm nên.
Hổ ở quẻ ngoại thì khuyên
Ra ngoài không được, ở yên chỗ này!
Hổ nằm hào sáu: không hay,
Chẳng nên manh động, phải rày tĩnh tâm
Vũ (lâm) Phụ: nghèo khó xuất thân
Vũ được sinh vượng làm ăn dễ dàng
Hưu tù: trắc trở dở dang,
Vũ chủ thất thoát hỏi chàng biết chưa? 


Quang Đạo: lequang306@gmail.com
ĐT: 0983225079
Nhận xem gia sự, xem quẻ dịch, xem số tử vi, xem ngày tốt, tư vẫn phong thuỷ theo tuổi của chủ nhà

Thứ Tư, 13 tháng 7, 2011

Xem vận hạn cuộc đời

Trên phương diện dự đoán học, dự đoán thông tin bằng bát quái là phương pháp dự đoán hoàn chỉnh nhất, cổ xưa nhất còn lưu truyền đến ngày nay. Căn cứ vào tượng quẻ, lời từ của quẻ và lời từ của hào động, đồng thời vận dụng nguyên lý âm dương ngũ hành để dự đoán. Phạm vi dự đoán rất rộng, có thể dự đoán thời tiết, hôn nhân, tài vận, xuất hành, sự nghiệp, vận hạn cuộc đời… Bởi lẽ, hệ thống bát quái bao la vạn tượng, mọi biến dịch trong vũ trụ đều không nằm ngoài 64 quẻ dịch  với 384 hào– một bức tranh toàn cảnh về thông tin của tự nhiên xã hội và con người. Theo các nhà dịch học, chỉ cần kỹ năng đoán cao là có thể đoán trúng, còn vì sao lại đúng thì có lẽ đó là bí mật của thiên cổ

Có nhiều phương pháp dự đoán như bói cỏ thi, gieo đồng tiền, bốc quẻ theo con số, theo phương hướng, theo thời gian…trong đó, phương pháp gieo quẻ theo thời gian ( năm, tháng, ngày, giờ) do nhà dịch học Thiệu Khang Tiết ( 1011 – 1077) đời Tống phát minh ra và được đánh giá là đem lại kết quả chính xác cao.
Năm, tháng, ngày, giờ sinh còn gọi là tứ trụ, nó chứa đựng toàn bộ thông tin về cuộc đời của một con người. Nó như là một đồng hồ sinh học chỉ cho ta biết cát hung, hoạ phúc, sướng khổ, ốm đau bệnh tật, công danh sự nghiệp, học hành thi cử.v.v.. và từ đó ta có thể biết cách phòng tránh nhằm giảm thiểu những điều không tốt và phát huy những điều thuận lợi để gặt hái được nhiều thành công hơn trong cuộc sống.
Nếu bạn nào có nhu cầu xem cho biết vận hạn cuộc đời mình thì hãy gọi cho tôi theo số máy 0983225079, hoặc thư điện tử:  lequang306@gmail.com
Phương thức thanh toán: Nạp tiền qua điện thoại hoặc chuyển tiền vào tài khoản của tôi.
Lê Quang Đạo (CLB Kinh dịch Nghệ An)

Thứ Bảy, 2 tháng 7, 2011

Cách hãm tiết canh vịt



Tiết canh vịt
Nguyên Liệu:
- 1 con vịt mập, còn sống, thêm 2 bộ đồ lòng vịt
- Bắp chuối, rau thơm, ngò gai
- 100 g đậu phộng; 100g củ hành nhỏ + hành lá
- 1 kg bún
- 2 trái khế chua, 2 trái chanh, 2 trái chuối chát
- Tỏi, ớt, tiêu, đường, dấm, nước mắm, gừng, mỡ nước
Cách thực hiện:
Giai đoạn 1: Sửa soạn:
- Cho 1 muỗng súp nước mắm và 2 muỗng súp nước lả(nên dùng nước đun sôi để nguội) vào 1 cái tô. Cắt tiết vịt vào tô nước, lấy muỗng quậy lên cho đều, để đó.
- Vịt làm sạch lông, moi bộ đồ lòng ra.
- Bộ đồ lòng làm sạch, đem bằm nhuyễn (chừa gan lại để luộc sau)
- Chảo mỡ phi hành tỏi cho thơm, cho bộ đồ lòng vô xào chín, xúc ra đĩa, để nguội.
- Hành củ nướng chín, lột vỏ xắt mỏng + ngò gai xắt nhỏ
Giai đoạn 2: Làm tiết canh
- Cho hành củ đã nướng và ngò gai vào dĩa đồ lòng
- Cho thêm 3 muỗng súp nước lạnh vào chén tiết, đánh cho tan rồi dội lên trên đĩa đồ lòng, để chừng 15 phút thì tiết đông.
- ðậu phụng rang chín, bóc vỏ, đâm hơi nát; gan luộc xắt hột lựu; cho đậu phộng và gan luộc lên dĩa tiết canh, rắc thêm tiêu + ngò lên trên cho thơm.
- Vịt luộc chín, lóc thịt xắt ra từng miếng dầy độ 5 ly, xương vịt cho vào nồi nước lèo, đun kỹ cho nước được ngọt, độ 1/2 giờ lọc lấy nước trong dùng làm nước lèo. Nêm thêm tiêu + muối + bột ngọt + nước mắm cho nước lèo vừa ăn.
- Khế chua và chuối chát gọt vỏ xắt mỏng, gừng giả nhỏ. Khi ăn cho vào tô: rau sống + chuối chát + khế + gừng + bún + thịt vịt + tiết canh để trên cùng dội nước lèo lên, thêm nước mắm chanh, tỏi ớt cho vừa ăn. Món này ăn nóng rất ngon
chú ý:Tiết vịt phải cắt ở nách, dùng dao sắc cắt dứt khoát cho đúng tia, không nên lấy tiết ở cổ họng dễ cắt vào họng, không tốt. Bát để đựng tiết khi hãm càng sần sùi càng tốt (như bát sành bgày xưa), bát càng nhẵn càng dễ đông. Không được tham tiết, tiết cuối có nhiều nước mô, dễ gây đông nên bỏ đi. Không nhất thiết phải theo công thức 1 nước mắm + 2 nước đun sôi để nguội. Nếu bạn hãm tiết chưa quen có thể lấy 1 thìa nước mắm + 3 thìa nước đun sôi để nguội. Khi làm xong thịt vịt, bắt đầu đánh tiết canh, lấy xơ ranh hút hết phần nước phía trên rồi tiến hành đánh. Mục đích là cho nhiều nước, tiết vịt không tiếp xúc với không khí, sẽ không đông. Chúc bạn thành công.

Cách khác:
Tiết canh vịt là món ăn hết sức được yêu thích; ngặt một nỗi, tiết canh làm ở tiệm không được ngon vì người ta cắt thẳng tiết canh tươi vào đĩa rồi đem cất trong tủ lạnh chứ không đem "hãm". Vì vậy, muốn có miếng tiết canh ngon miệng đúng nghĩa, chúng ta phải tự làm lấy. Ngày lễ hay ngày nghỉ cuối tuần thường là dịp để gia đình, anh em và bè bạn tụ tập cùng nhau làm và thưởng thức món tiết canh; vì vậy, vượt ra ngoài phạm vi ý nghĩa của một món ăn thông thường, món tiết canh còn tạo cơ hội để mọi người gặp gỡ nhau, từ đó thắt chặt quan hệ gia đình và bè bạn.

VnRedDevil tui khi xưa chỉ được giao nhiệm vụ rang và giã đậu phộng mà thôi; khá lắm thì được giao thêm việc bằm đầu, cổ cánh để làm nhân tiết canh chớ công việc quan trọng như hãm tiết canh thì chẳng bao giờ được giao. Việc đó được mấy nghệ nhân sư huynh, sư tỷ đảm nhận hết, vĩnh viễn không đến lượt thằng tui. Dưng mà tui cũng có nhã ý học cho hết cái "uyên áo" của nghệ thuật này để đi chén chú, chén anh cùng bạn bè chiến hữu cho nên mới đem tất cả những điều mắt thấy tai nghe mà ghi hết lại ở đây. Lần hồi tôi lại bổ sung thêm những kiến thức học được từ bên ngoài hay tự mình tìm tòi qua những lần thực hiện món này ở đó ở đây; cho nên trình độ thực hành cũng không đến nỗi nào.

Làm món tiết canh đòi hỏi một số kỹ năng nhất định, nếu không tiết canh có thể bị đông cứng hay không thể đông được và như thế, coi như bạn đã thất bại. Bài hướng dẫn dưới đây sẽ trình bày những bí quyết để các bạn có thể tự làm món tiết canh vịt và các món ăn kèm như miến và bún vịt một cách thành công.

Hướng dẫn làm món tiết canh vịt

I. Chuẩn bị:
1-Đĩa đánh tiết canh: một con vịt thì đánh được khoảng 2 đĩa, cứ dựa theo đó mà chuẩn bị số lượng đĩa. Đĩa làm tiết canh nên có độ sâu vừa phải.

2-Dao nặng, sống dày để băm cổ, sụn được thuận tiện.

3-Thớt: khoảng 2 cái để hai người cùng làm cho nhanh.

4-Nhân sự: khoảng 4 người. Nếu số lượng người làm quá ít, coi chừng làm xong rồi lại mệt quá không thưởng thức nổi món mình làm ra. Đây là kinh nghiệm xương máu, chớ nên xem thường!

5-Ghế: 3 đến 4 cái. Không có ghế, e rằng không thể chịu đựng nổi ba bốn tiếng ngồi xổm.

II. Các loại rau sống, rau thơm và gia vị:
1-bắp chuối
2-rau muống chẻ
3-húng*
4-ngò
5-ngò gai
6-tía tô
7-kinh giới
8-chanh
9-ớt hiểm
10-đậu phụng
11-hành củ
12-hành tây
13-hành lá
14-gừng
15-tiêu
16-dấm ăn
17-bánh tráng nướng**
18-măng***
19-miến****
*nếu kiếm được húng Láng thì tốt. Húng Láng trồng ở Láng, ngoại thành Hà Nội, lá nhỏ như lá bạc hà, rất thơm. Ngày trước ở Sài Gòn, bạn có thể kiếm húng Láng ở mấy sạp bán đồ Bắc trên đường Pasteur đoạn gần nhà thờ Đức Bà. Ngày nay có lẽ có bán ở siêu thị nhưng tui không rõ là siêu thị nào vì là thời cúm gà, không làm tiết canh nữa nên cũng không để ý.
**hay bánh đa. Bánh đa có thể mua ở mấy khu chợ Bắc ở quận Tân Bình. Bánh đa khá dày chứ không mỏng tang như các loại bánh tráng thông thường.
***nếu kiếm được măng nứa hay măng lưỡi lợn là tốt nhất. Măng lưỡi lợn rất dày, đen thẫm, được khai thác từ một giống tre lớn (cây sộp) ở vùng núi phía Bắc. Măng lưỡi lợn để nấu miến rất ngon tuy hơi khó kiếm và làm cũng cực hơn. Nếu nấu bún vịt thì dùng loại măng chua luôn có sẵn ngoài chợ.
****nếu kiếm được loại miến làm từ củ dong thì tốt. Miến này gọi là miến dong. Nếu không có miến dong thì có thể dùng miến đậu xanh. Loại này dễ kiếm hơn loại đầu.

Có đến gần 20 thứ phải mua như thế này thì nhất định phải viết hay in ra giấy để đi chợ chứ không thể nào mà nhớ nổi. Hơn nữa, kiến thức của tui về các loại thực phẩm rất hạn chế, chủ yếu là nghe lời phán của sư tỷ mà liệt kê ra đây mà thôi.

III. Cách chế biến nước mắm:
Đây là nước mắm để ăn với tiết canh, còn nước mắm gừng để chấm thịt vịt thì rất dễ làm, tưởng ai cũng biết rồi nên không cần bàn tới nữa. Cách chuẩn bị như sau:
1-Hành củ xắt mỏng, ngâm dấm độ 3 tiếng cho dòn.
2-Hành tây xắt mỏng
3-Ớt và gừng giã nhuyễn
Cả ba thứ trộn đều, sau gia giảm thêm mắm, đường, dấm ăn và nước lọc. Chú ý cho tỷ lệ đường, nước mắm tùy theo khẩu vị của người dùng. Vị quá ngọt hay mặn có thể làm một số người ăn mất ngon hay ngược lại.

IV. Cách lựa và làm vịt:
1-Nếu kiếm được vịt cỏ hay là vịt ta thì tốt. Loài này nhỏ con nên không được nuôi công nghiệp để lấy thịt như những loài vịt khác; chúng thường được nuôi dặm, tức là thả trên đồng để ăn ốc, sâu rầy bảo vệ lúa hay lượm lúa rụng sau mùa thu hoạch. Vịt cỏ có lông ngũ sắc, tuy nhỏ con nhưng để làm tiết canh thì rất ngon. Nếu không kiếm được vịt cỏ thì tạm dùng vịt xiêm hay còn gọi là con ngan vậy. Vịt xiêm tuy không thơm ngon bằng vịt cỏ nhưng lại có nhiều thịt.

2-Dùng tay thăm dò lườn, cẳng xem vịt có đẫy đà hay không. Xem lông đuôi để xác định vịt trống hay mái. Vịt trống có lông đuôi vểnh sang hai bên và lên trên hay con trống có lông trên đầu dài hơn. Vịt trống có phần kém mập mạp hơn vịt mái. Tuy nhiên điểm này không quan trọng, việc phân biệt trống mái chủ yếu để xác định cách cắt tiết mà thôi. Nguyên tắc như sau: "Trống bên trái, mái bên phải".

3-Vịt sắp thay lông có rất nhiều lông tơ; vạch lông, kiểm tra kỹ lưỡng vùng cổ, lườn là thấy liền. Không nên mua vịt này vì nhổ lông tơ rất mất công sức, thời gian. Còn nếu lỡ mua rồi thì phải làm sao? Ngâm vịt vào nước sôi hơi lâu một chút rồi dùng tay miết mạnh cho da vịt bong ra luôn, tất nhiên là lông cũng không còn nữa. Làm lông kiểu này hơi "bá đạo" vì thịt vịt mà không da sẽ kém thẩm mỹ, mà da vịt cũng rất ngon, lỡ mà quan khách hỏi ăn thì biết đàng nào mà trả lời. Tốt nhất là cứ để lông tơ như vậy mà luộc, khi chín thịt sẽ săn lại, lúc này dùng nhíp mà nhổ sẽ dễ hơn nhiều. Hay là cứ để vậy mà chặt thành từng miếng sắp lên đĩa. Ai gắp miếng nào thì tự nhổ lông miếng đó. Số lượng người ăn thường nhiều hơn số lượng người làm. Việc thiệt khó mà chia nhỏ ra thì cũng hóa dễ vậy.

V. Cách nấu nước xáo vịt:
1-Nếu nấu miến thì phải ngâm miến vào nước cho mềm đi, sau khi nấu xong nước xáo mới cho vào sau cùng, để miến vừa chín tới mà vẫn giữ được độ dai.

2-Măng nứa để nấu miến phải đem ngâm nước trước một hai đêm, rồi đem hầm từ một đến hai tiếng cho mềm, sau vớt ra tước thành sợi mỏng, loại bỏ phần chai. Khi luộc vịt, váng mỡ sẽ nổi lên, vớt váng mỡ này đem xào với phần măng đã chuẩn bị ở trên. Nhớ nêm mắm muối cho hương vị được đậm đà.

3-Nước xáo vịt được hầm với đầu, cẳng, cánh, để có độ ngọt. Nước xáo sẽ được lấy một ít để làm tiết canh vịt nên ban đầu chỉ nêm một ít bột ngọt hay không nêm gì cả. Sau khi múc nước xáo ra làm tiết canh, chúng ta có thể nêm đường hay bột ngọt nhưng nhớ đừng lạm dụng quá vì bột ngọt có hại cho sức khỏe. Có thể chặt thịt vịt thành từng miếng đem hầm để tăng độ ngọt, khi nào ăn mới vớt thịt ra đĩa. Cách này làm cho thịt mềm nhưng sẽ bị nhạt. Vậy thì phải làm sao? Xin được cống hiến một phương pháp bí truyền mà tác giả đã nghiên cứu và thực hành trong nhiều năm trời, hiệu quả phi thường! Cách thực hiện như sau: bạn cứ cho thêm vào nồi nước sáo một hai con gà mái tơ để hầm từ đầu chí cuối, còn vịt cứ luộc như bình thường. Sau len lén vớt gà ra, bọc giấy kiếng để tủ lạnh ăn dần hay đem tặng bạn bè, người thân vừa đỡ phải ăn mà lại được tiếng là tốt bụng! Nước xáo "xử lý" theo cách này có vị ngọt đậm đà, thanh thoát vô cùng, người sành ăn cách mấy cũng phải tỏ lời thán phục tài nấu nướng của bạn. Cách này tuy hơi tốn kém nhưng đôi khi chúng ta cũng cần gây ấn tượng với ai đó bằng mọi giá (như với xếp hay gia đình người iêu chẳng hạn). Nói riêng với các bạn là tui luôn sử dụng cách này mỗi khi được "mời" đi đánh tiết canh cho bạn bè.

VI. Cách làm tiết canh vịt:
1-Chuẩn bị chén để hãm tiết vịt. Mỗi con vịt dùng mỗi chén khác nhau. Đừng để lẫn lộn kẻo tiết nó "đụng" nhau mà hỏng, không chừng vịt cũng có nhiều nhóm máu khác nhau giống như ở người. Dung dịch hãm gồm "3 muỗng nước, 2 muỗng mắm", nếu muốn chắc ăn thì cho khoảng 2 phần rưỡi mắm, nhưng sau này "đánh" ra đĩa sẽ lâu đông hơn. Nếu làm vịt xiêm thì tăng khối lượng hỗn hợp nước và mắm lên một chút. Công thức tuy đơn giản như vậy nhưng cũng phải tùy vào độ mặn, nhạt của nước mắm mà gia giảm vì nước mắm mỗi nơi mỗi khác. Điều này lại phụ thuộc vào cảm nhận của từng người chớ không thể cân đo đong đếm được, cho nên phải thực hành thật nhiều mới quen được.

2-Cắt tiết vịt nên chọn động mạch cổ, gần tai theo nguyên tắc "trống bên trái, mái bên phải". Cắt cẩn thận, không để phạm phải cuống họng mà dây đờm dãi làm mất vệ sinh. Cũng vì lý do trên mà không nên sử dụng cách chặt mỏ hay cắt cánh để lấy tiết.

3-Bỏ đi một ít tiết đầu và cuối. Nên chuẩn bị sẵn một cái chén để đựng tiết này, sau đem luộc cùng với lòng vịt. Trong khi tiết đang chảy, nhẹ nhàng dùng đũa khuấy đều tiết với dung dịch hãm, đồng thời vớt sạch lông vịt rơi vào chén; sau đó, đem để nơi thoáng mát, cố định. Tuyệt đối tránh di chuyển, rung lắc làm "động" tiết trong chén. Sau thời gian độ chừng nửa tiếng, nếu thấy có một lớp mỏng huyết tương xuất hiện trên bề mặt chén là có thể yên tâm được rồi.

4-Lòng, mề, tim, gan, tiết được đem luộc với nồi nước xáo vịt. Xin nhắc lại là nhớ đừng nêm muối hay bột canh vì cần lấy nước xáo này để làm tiết canh, nếu có muối sẽ làm tiết khó đông. Tới đây là công đoạn làm nhân tiết canh. Các thành phần gồm:
a) Đậu phụng rang giã nhỏ thành miếng cỡ một phần tư.
b) Tiết luộc, lòng, mề xắt hạt lựu
c) Thịt lườn xắt hạt lựu. Trong con vịt thì thịt ở phần này là ngon nhất, làm như vầy là có phần ưu ái món tiết canh mà hắt hủi món thịt vịt!
d) Miếng sụn lườn và cổ băm thiệt nhuyễn. Chú ý băm cho kỹ, khi ăn tiết canh có cảm giác "lựt xựt" ngon miệng hay không là ở công đoạn này.
Tất cả đem trộn đều, cho thêm một chút tiêu, bột ngọt rồi đem rải đều lên các đĩa.

5-Có bao nhiêu chén tiết canh thì chuẩn bị bấy nhiêu tô nước xáo để nguội, tuy nhiên, lượng nước trong tô chỉ độ một chén mà thôi, tức là đủ cho hai dĩa tiết canh. Nhẹ nhàng đổ chén tiết canh đã hãm vào tô, dùng muỗng quậy đều rồi đổ ra đĩa đã sắp sẵn. Khi quậy, phải hết sức dịu dàng, không được chậm quá, mà cũng không được nhanh quá; vì lúc này, phản ứng "đông cứng" đang hình thành; mọi vận động thái quá sẽ làm tăng tốc phản ứng này, không chừng tiết đông ngay trên tô mà không kịp đổ ra đĩa. Nếu làm một lúc 3-4 con vịt, số lượng tiết canh nhiều thì nên chia ra 2-3 lần để làm chớ đừng làm một lần, tiết canh rất dễ bị đông.

6-Sau cùng, gan, tim xắt mỏng cùng với ngò xắp lên trên mặt đĩa. Để yên chừng nửa tiếng cho tiết đông hẳn rồi mới bưng ra bàn ăn.

Phụ lục:
Các bí quyết để hoàn thành món tiết canh vịt kèm theo món bún hay tiết canh đã trình bày ở trên. Sau đây là chuyện ngoài lề, chuyện trà dư tửu hậu...:

1-Ăn tiết canh như thế nào?
Nghe hơi tức cười, nhưng có nhiều người hỏi câu này rồi, nên cũng xin trình bày như sau:
a) xớt tiết canh từ đĩa vào chén
b) chan một ít nước chấm có hành củ, hành tây xắt lát
c) vắt chanh, thêm ớt
d) cho thêm rau thơm, rau sống
e)...rồi ăn kèm với bánh đa.
Tiết canh là miếng ngon, mọi người thưởng thức nó trước tiên. Kế đó mới dùng đến miến vịt hay bún vịt.

2-Các loại tiết canh khác?
Ngoài tiết canh vịt có thể kể thêm tiết canh thỏ, heo, dê, chó và hải sản như tôm, cua; ngoài ra còn có rượu tiết rắn, dơi... nhưng đều không thơm ngon bằng tiết canh vịt. Tiết canh vịt là vua của tất cả các thể loại tiết canh.

3-Tản mạn về món tiết canh của người Việt
Không rõ có tài liệu nào ghi nhận lịch sử ra đời của món tiết canh hay không nhưng nhất định là món tiết canh của người Việt chúng ta phải có từ rất lâu rồi, có lẽ từ thời ông bà mình còn cởi trần đóng khố nữa kìa. Thuở xa xưa, khi kết nghĩa anh em hay cam kết điều gì trang trọng người ta thường hay "cắt máu ăn thề" tức mỗi người tự cắt máu hòa chung với rượu để uống rồi thề thốt với trời đất. Có phải món tiết canh ngày nay là dấu vết của tục lệ cổ xưa đó của cha ông ta hay không? chỉ có các nhà nghiên cứu lịch sử mới có thể trả lời một cách thích đáng câu hỏi này nhưng tui tin là món tiết canh nhất định phải bắt nguồn từ một tục lệ xa xưa nào đó của tổ tiên mà nó đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của họ.

Theo ý kiến của tui thì món tiết canh là món đặc trưng của riêng người Việt, chỉ có người Việt mới thích và sành ăn các thể loại tiết canh mà thôi. Một mặt, nó thể hiện tinh thần độc lập một cách vô thức của người Việt, thứ tinh thần mà chúng ta đã và luôn luôn thể hiện trong suốt quá trình lịch sử dựng và giữ nước. Món tiết canh thực sự ngon hay là chúng ta đã thấy nó ngon ngay từ thuở lọt lòng? Trên thực tế, đại đa số chúng ta "tiếp cận" với món tiết canh một cách thật dễ dàng, có thể nói là có năng khiếu bẩm sinh; trong khi hầu hết bạn bè nước ngoài chỉ mới nghe giới thiệu về món ăn truyền thống này của chúng ta là đã nhăn mặt ngay rùi. Mặt khác nó thể hiện yếu tố đặc trưng về văn hóa ẩm thực của người Việt. Nếu người Pháp nổi tiếng với món gì gì đó (nghe nói ẩm thực Pháp nổi tiếng nhưng không rõ đâu là món đặc biệt nhất, rượu vang chăng?), người Trung Hoa tự hào với món gì gì đó (cũng không rõ luôn, vịt quay Bắc Kinh chăng?), người Nhật nổi tiếng với món susi (chắc là vậy), người Hàn Quốc nổi tiếng với món thịt chó (gần gũi quá, hic hic)... thì món "quốc hồn, quốc túy" của chúng ta chính là món tiết canh. Ăn tiết canh không chỉ thỏa cái sướng khoái về khẩu vị mà còn là cách thể hiện và gìn giữ văn hóa dân tộc.

Thời buổi văn minh hiện đại, nhiều người chê món tiết canh là mất vệ sinh nên không ăn. Các bạn đó cũng đúng thôi, tui cũng nghĩ là không nên ăn các loại tiết canh heo, dê, chó hay hải sản vì có thể bị lây bệnh. Còn nếu xét trên "tinh thần khoa học" một cách nghiêm túc thì tất cả các món tiết canh kể cả tiết canh thỏ, vịt, rượu tiết rắn, dơi... cũng phải bỏ luôn; có điều... món tiết canh lại là món đặc trưng trong văn hóa ẩm thực truyền thống của chúng ta như đề cập ở trên... vì vậy kiểu gì cũng phải ráng hết sức mà duy trì, không thể để cho mai một được.

Nếu món tiết canh là món đặc trưng của người Việt thì tiết canh vịt chính là quốc gia chi bảo, là vua trong tất cả các thể loại tiết canh. Nên nhớ rằng, chúng ta tự gọi mình là con Hồng, cháu Lạc. Lạc và Hồng ở đây là chim Lạc, chim Hồng, các giống chim có mỏ và chân giống như con... vịt; chúng bay rất cao và kêu rất to. Hàng năm đến mùa di cư, chúng bay về phương Nam để tránh lạnh. Ông cha ta nhìn thấy chim Hồng, chim Lạc là chạnh lòng nhớ về cố hương ở phương Bắc nên mới tự gọi mình là con Hồng cháu Lạc để khỏi quên gốc gác tổ tiên. Lại đặt tên nước là Việt Nam để tự ví mình là người Việt ở phương Nam. Ngày nay không rõ chim Hồng, chim Lạc được gọi tên là gì hay là đã tuyệt chủng rồi, cái đó xin để các nhà điểu học nghiên cứu; chỉ biết rằng chúng đã từng đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt cổ; mà bằng chứng còn lưu lại rành rành qua các hình khắc trên các trống đồng được khai quật ngày nay... Theo võ đoán của tui thì chúng có lẽ đã từng là vật tế không thể thiếu trong các nghi lễ cúng tế xưa kia và vì không thể thiếu, nên nếu không tìm ra thì lấy... con vịt mà thế tạm vào; lần hồi mà thành ra món tiết canh vịt lưu truyền trong dân gian. Như vậy con vịt cũng rất là trân quí chớ không tầm thường chút nào; mà phải là vịt cỏ, vịt ta màu ngũ sắc chớ không thể là vịt xiêm, vịt công nghiệp trắng bóc được đâu.

Nói tới nói lui chung qui cũng là vì quá thèm tiết canh vịt mà ra. Ngặt một nỗi vì thời buổi cúm gà, cúm vịt cho nên đành phải nhịn đó thôi. Mỗi lần con sâu "tiết canh" nó ngo ngoe, quẫy đạp trong lòng thì chúng ta cũng chẳng biết phải làm sao ngoài việc trông đợi ngậm ngùi... "hỡi ôi, bao giờ cho hết cúm gà"...

 Học tiếng Lào, vào đây xem
Bạn nào có nhu cầu học tiếng Lào hãy gọi cho tôi: Quang Đạo, ĐT 0983225079

Văn chương, nghệ thuật, rượu bia
Khoa học thần bí chẳng chê môn nào
Kể cả việc Dạy tiếng Lào
Bạn nào muốn học, mời vào đây xem
Dạy cả ngày, dạy cả đêm
Có tài liệu, có cả phim tiếng Lào...

 Địa chỉ mail: lequang306@gmail.com
Nhà ở tp Vinh, Nghệ An. Rất vui được phục vụ các bạn!