Thứ Hai, 9 tháng 12, 2013

Giao lưu - Gặp gỡ

Như đã thành thông lệ, mỗi tháng một vài lần các thành viên Câu lạc bộ Dịch hoc - Lý số Nghệ An lại có những cuộc gặp gỡ giao lưu trong phạm vi hẹp, anh em còn gọi đùa là những cuộc gặp không chính thức nhằm trao đổi sâu hơn những vấn đề về chuyên môn thuộc các bộ môn khoa học huyền bí Phương Đông như Bốc dịch, Tử vi, Tử bình, Độn toán, Phong thuỷ, Hà lạc lý số, Kỳ môn độn giáp, Thái ất thần kinh... Các cuộc "Tiểu hội thảo" này chủ yếu diễn ra tại nhà riêng của ông Quang Đạo, Chủ nhiệm Câu lạc bộ và nhà riêng của một vài thành viên khác. Cũng có khi diễn ra tại các quán Cà Phê trong thành phố.
Số lượng tham gia tuy không nhiều nhưng vì trao đổi theo các chủ đề riêng biệt nên mọi người đều có cơ hội phát biểu, thảo luận, hoặc cùng nhau bình luận về một lá số hay một quẻ dịch đặc biệt nào đó. Qua thảo luận mọi người có cơ hội hiểu nhau hơn và cũng có điều kiện nâng cao kiến thức kỹ năng dự đoán của mình.

-Ngày mùng 8/12 vừa rồi nhân dịp anh Thanh Tùng, một thành viên của hội khai trương Ky ốt đá phong thuỷ tại đường 3/2, thành phố Vinh, mấy anh em lại đến tham dự, chia vui cùng anh và gia đình, góp những ý kiến xác đáng dưới góc nhìn của các nhà huyền học, phong thuỷ nhằm giúp anh gắn lý luận với thực tiễn, để sự nghiệp kinh doanh ngày càng phát triển.

-Ngoài các cuộc gặp gỡ nội bộ, năm nay Câu lạc bộ cũng đã có dịp đón và giao lưu với ông Nguyễn Trọng Tuệ, Chủ nhiệm cùng các thành viên trong Câu lạc bộ Phong thuỷ Thăng Long, Hà Nội. Hai bên đã thông báo cho nhau về tình hình hoạt động của mình, trao đổi kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động chuyên môn. Hướng tới sự hợp tác lâu dài trong tương lai.
Đón và giao lưu, trao đổi kinh nghiệm với anh Đỗ Anh Thơ, một nhà nghiên cứu Dịch học tại Thành phố Hồ Chí Minh, quê gốc ở Nghệ An, một người đã từng viết, dịch và xuất bản nhiều đầu sách về các môn khoa học huyền bí phương Đông.
Hi vọng trong năm tới những cuộc giao lưu gặp gỡ, và những cuộc "Tiểu hội thảo" như thế này sẽ được duy trì, đi dần vào nề nếp và được đón thêm nhiều bạn bè khách quý đến thăm!
Quang Đạo
Chủ nhiệm Câu lạc bộ Dịch học - Lý số Nghệ An
ĐT: 0983225079
Địa chỉ Mail: lequang306@gmail.com

Thứ Năm, 5 tháng 12, 2013

Những câu phú đoán dùng trong Bát tự (Phần 2)



2-Anh chị em.Tỷ Kiếp nhiều, anh chị em cũng nhiều.Tỷ Kiếp đóng quí nhân, anh chị em phú quí.Tỷ Kiếp tọa Lộc và Tướng tinh là hỷ dụng, anh chị em phú quí.Thân vượng có Ấn, anh chị em nhiều.Nhật chủ nhược, trụ tháng Ấn vượng, nhiều anh chị em.Tỷ Kiếp tọa Thiên đức Nguyệt đức, anh chị em hiền lành trung hậu.Tỷ Kiếp được Trường sinh, anh chị em khỏe mạnh sống lâu.Nhật chủ nhược mà có Tỷ co Lộc, anh chị em khấm khá, đoàn kết.Thân vượng Tài nhẹ, anh chị em đông.Tháng có Quan tinh anh em tất quí hiển.Sát vượng Thực nhẹ, Ấn nhược gặp Tài, được Tỷ Kiên địch Sát, được sự giúp đỡ của anh chị em.Tháng có Thương Quan, anh em bị tổn bớt.Nhật chủ vượng mà Tỷ Kiếp nhiều, anh chị em suy mà không hòa thuận.Quan yếu Thương mạnh, Tỷ Kiếp sinh Thương, bị anh em liên lụy làm khổ.Tài nhược Tỷ Kiếp vượng, anh em trở mặt.Có Tỷ Kiếp Dương Nhẫn, anh em bất hòa, hay phạm khẩu thiệt.Dương Nhẫn gặp xung, anh em không lợi đi xa, hoặc anh em không hòa thuận hoặc nhiều bệnh.Tỷ Kiếp tọa Đào hoa, anh chị em phong lưu tài tử.Tỷ Kiếp trùng trùng không có chế phục, làm hại gia phong trong nhà, anh em không có tình cảm.Nhật chủ nhược, tứ trụ không có Tỷ Kiếp Ấn thụ, nếu lúc nhỏ vô vận Tỷ Kiếp là thưở nhỏ cô đơn khổ sở.Nhật chủ nhược, tứ trụ không có Ấn thụ, chỉ dựa vào Tỷ Kiếp giúp thân, là không được cha mẹ trợ giúp mà phải nương tựa anh chị em mới thành gia nghiệp.Tính cách, dáng ngườiTính cáchÂm thác dương sai, lạnh nhạt chuyện giao tế.Ấn tinh và Thiên đức đồng cung, thành thật, hiền lành.Thiên đức Nguyệt đức không bị phá, nam thì trung hiếu, nữ thì hiền lành.Tài Quan Ấn Thực, đức độ hiền lành.Ất Canh hợp, hòa hợp với mọi người.Giáp gặp Kỷ mà lại sinh vượng, có tấm lòng ngay thẳng.Giáp mộc sinh vào mùa xuân, tính tình ôn hòa hiền từ.Nữ mạng thân nhược, tính tình đơn giản mà dịu dàng.Bính gặp Tân kim ở đất Bắc, dù nghèo cũng có đức ( Tháng thủy vượng).Lục Giáp Không vong, gặp sinh vượng, khí độ to tát.Kim nhiều, uy vũ cương liệt.Mộc nhiều, có lòng trắc ẩn.Thủy nhiều, thông minh khéo léo.Tứ trụ bình hòa, không tranh giành, không đố kỵ.Hỏa vượng, nóng tính, hay hùng biện.Quan vượng Mã vượng, giao tiếp với người rộng rãi khảng khái.Năm tháng ngày giờ cùng trong một tuần, lạc quan không lo âu.Tài vượng thân nhược, người hiền lành ngay thẳng.Một Quan kỵ Mã, người thông minh phong nhã. Ngày kim Thương Quan thủy, thông minh hiển đạt.Can ngày tọa Quí, cả đời thanh cao.Thực Thần và Văn xương đồng cung, hùng biện lưu loát.Dần Thân Tỵ Hợi toàn, thần sắc thanh tú, dàng mạo đẹp, thích tranh đấu.Đinh hỏa Thương Quan, tính cao ngạo mà có mưu.Thiên Tài thanh cao, khảng khái ( Thiê Tài cách).Kim bạch thủy thanh, thông minh hiển đạt.Đinh Nhâm hóa mộc, tâm địa nhân từ, thông minh.Dương Nhẫn được ơn báo oán.Can ngày tọa Thất Sát, lanh lợi, thông minh, tính dữ.Thương Quan, đa tài đa nghệ, ngạo nghễ, người làm quan thấy thì sợ, tiểu nhân thấy thì ganh ghét.Nữ mạng thân cường vượng thì ăn hiếp chồng, bất hiếu bố mẹ chồng, nhiều thị phi, tính nóng.Thương Quan gặp Quan, quỉ kế đa đoan.Mã rơi vào Không vong, bôn ba vất vả.Trụ nhiều hình là người bất nghĩa.Nữ mạng ngày có Thương Quan, hay mắng chồng.Kiêu Ấn chỉ siêng lúc đầu, về sau làm biếng, thích học các nghề vặt, nhưng học nhiều mà thành tựu ít.Thiên Ấn Kiếp Nhẫn, tâm địa hung ác, vô tri, khắc bạc, không có lòng từ thiện.Thiên Tài Chính Tài lộ, không giữ tiền, thích các nghề vặt, thích được nịnh, hay nói chuyện thị phi, tham tửu sắc.Hoa cái gặp Không vong, khắc bạc.Nhật chủ nhược, thủy hỏa tương chiến, hay gặp thị phi.Mộ khố đóng ở ngày, lo âu nhiều, ít an vui.Chính Ấn đới Thực Thần, nói năng lắp bắp.Người mạng có Tỷ Kiếp nhiều hẹp lượng, tính kiêu căng, làm sai không chịu nhận. Thất sát chi ngày, vợ không hiền.Tài nhiều thân nhược, sợ vợ, hay nghe lời vợ.Thủy nhiều mộc ít thân lại nhược, phiêu bạt năm châu bốn biển.Thổ bị hỏa nóng hun đốt, giọng khàn nhưng giữ lễ nghi.Thương Quan không có Tài mà có Nhẫn, chuyên làm chuyện gian xảo.Mạng nam Tài nhiều Kiếp nhiều, vợ tham lam.Mạng nam Thương Quan Thất Sát Dương Nhẫn, bị người thân bạn bè làm tổn thương tình cảm.Mạng có Kiếp Tài làm bại Tài, không biết tự lượng sức.Đào hoa đới hợp, người phong lưu nho nhã.Thiên can thấu Ấn, thông minh.Hợp nhiều tình cảm nhiều, không có chí lớn.Dịch mã nhiều, người nay đây mai đó.Tý Mão tương hình, trong nhà không có lễ đức.Gặp nhiều lục hại, vong ơn phụ nghĩa.Dịch mã bị xung, bôn ba không nghỉ.Nữ mạng Đào hoa đới Sát, đa dâm tư bôn.Kiếp Tài, Dương Nhẫn đóng ở hai đầu là bên ngoài sáng láng bên trong rỗng không .Kiêu Thần mà kỵ là người bất nghĩa.Khôi canh gặp xung, không biết kiêng dè gì cả.Trụ không có Quan tinh, thích tự do, không thích bị quản chế.Nhâm thủy gặp Mậu thổ, tính nóng như hổ, hay tranh chấp háo đấu.Vong Thần gặp Tỷ Kiếp, khẩu phật tâm xà.Nữ gặp Tỷ Kiếp, chị em không hợp, hay tranh chấp, ghen ghét.Nữ mạng có Thực Thần, hướng nội, ít nói mà cao ngạo, không theo thời thế, không chịu phát huy.Vong thần đới Sát, gặp thêm Sát nữa là làm ăn cướp.Chính Quan là hỷ dụng thần, thông minh có kiến thức, hành sự có chừng mực, cẩn thận chu đáo, cần kiệm đơn giản.Chính Quan là kỵ thần, kiêu ngạo mà cố chấp, nhưng khi đụng việc thì lại do dự, hoặc thiếu sự tin tưởng, không tuân thủ nguyên tắc.Thiên Quan là hỷ dụng, có lòng nghĩa hiệp, sức tranh đấu dồi dào, phán đoán tốt, thích mạo hiểm, có chí khí, đã nói là làm, không giả dối hoặc khách sáo, dám đột phá hoàn cảnh khó khăn. Khi xã hội động loạn, giá trị của Thiên Quan sẽ được phát huy tốt nhất.Thiên Quan là kỵ thần, ham tửu sắc lại háo đấu, tính nóng nảy, dễ gây xung đột với người khác, làm việc thì quá cực đoan, dễ gây thù chuốc oán nên ít có bạn thân.Thân nhược Thiên Quan không được chế hóa, tính tự phụ, hay trả thù, nên cũng hay bị gậy ông đập lưng ông.Thân nhược, Thiên Quan nhiều, không có Ấn chuyển hóa, tính cứng cỏi, háo đấu, dễ vô đường tà đạo.Chính Ấn là hỷ dụng thần, người tính tình khoan hậu, tinh thần thoải mái, lương thiện, có tình người, xử thế khéo léo, chú trọng rèn luyện phẩm tính cao thượng và nội hàm của nhân cách., có lòng kính ngưỡng với tôn giáo và tuân thủ các nguyên tắc đạo đức.Chính Ấn là kỵ thần, thiếu tinh thần độc lập tự chủ, ỷ lại, hơi có tính ích kỷ, keo kiệt, tư tưởng ngây thơ, dễ tưởng là mọi sự việc sẽ tốt đẹp nên thường thất vọng vì không được như ý, tự ái cao.Thiên Ấn là hỷ dụng thần, có tài năng khai sáng cao, có năng lực lĩnh ngộ và sức cảm thụ một cách đặc biệt, tính cảnh giác cao, giỏi quan sát suy đoán, tâm tư rất tinh tế, xử sự rạch ròi.Thiên Ấn là kỵ thần, làm việc mau mắn rạch ròi nhưng không được bền lâu, đứng núi này trông núi nọ, thích đi đường tắt, thích học nhiều nhưng ít tinh thông, ít độ lượng, ích kỷ, tự đánh giá mình quá cao, không hòa nhập được vớ người khác. Nếu rút kinh nghiệm những khuyết điểm này sẽ phát huy được tài năng thiên phú của Thên Ấn, có khả năng còn lập được sự nghiệp lớn.Tỷ Kiên là hỷ dụng, bề ngoài bình thường nhưng bên trong phong phú, rất nỗ lực, giỏi so sánh và chọn lựa, giỏi sáng lập, ý chí kiên định không dễ thay đổi lập trường, chơi với bạn trọng tình nghĩa thực chất. Nói chung Tỷ Kiên tượng trưng cho ý chí kiên định, tự tôn, phân biệt phải trái, cố chấp, giữ vững lập trường, rất bền bỉ, thường hoàn thành tâm nguyện trong nghịch cảnh.Tỷ Kiên là kỵ thần, tính tình kỳ cục, không hòa đồng, đi đâu làm gì cũng một mình, làm việc thường lấy cái tôi lên trên, không chịu thỏa hiệp cho nên có lúc khó ăn ở hòa bình với người khác, có rất ít bạn tri kỷ, đối xử với người thân và người dưới tương đối hà khắc, bất cận nhân tình.Kiếp Tài là dụng thần, duyên bên ngoài rất tốt, nói năng giỏi, rất có cá tính, nhiệt tình thẳng thắn và hào sảng, tâm tư mẫn tiệp, giỏi lâm nguy ứng biến, nghĩa khí, có tài xã giao và hùng tâm mở mang sự nghiệp.Kiếp Tài là kỵ thần, hách dịch tự cao, không khiêm tốn, lỗ mãng, cố chấp không nhận thua, cá tính mâu thuẫn, người có đa nhân cách, tâm lý khó quân bình nên có lúc tự tin lạc quan có lúc nghi ngờ thất vọng, tính cách bồng bột, nhắm mắt làm bừa nên càng làm càng sai, về xử trí tình cảm thì khắt khe với người mình mà dễ dãi với người khác.Thực Thần là hỷ dụng thần, người thông minh điềm đạm, toát ra vẻ tinh anh tú khí, bản tính hiền hậu hiền hậu không hay tranh chấp với người khác, có phong thái của bậc đàn anh, độ lượng khoan hồng, có khí chất văn nhân, tư tưởng mới mẻ thoát tục, bản tính lạc quan, trọng sự hòa hợp giữa tinh thần và vật chất, tương đối cảm tính, có khuynh hướng yêu thích văn nghệ, học thuật, tôn giáo, nghệ thuật.Thực Thần là kỵ thần, không có khí phách khắc khổ cần cù, tính ỷ lại, thích nói đại ngôn, nói quá sự thực, có lúc lý tưởng và hiện thực không ăn khớp, dễ vì mệt nhọc mà làm biếng, bởi vì tư tưởng thanh cao nên vô hình trung có thói quen tự phụ cho mình là nhất. Thực Thần quá nhiều hay keo kiệt, mưu lợi cho mình mà không nghĩ cho người khác.Thương Quan là hỷ dụng thần, người mạng Thương Quan dáng vẻ rất thanh tú khả ái, lại đa tài đa nghệ, có tài ăn nói, thông minh tài cán, dám nghĩ dám làm, nội tâm tràn đầy sức sống và tinh thần phấn đấu, nên dễ có được thành công ở một mặt nào đấy, có vinh dự và uy tín.Thương Quan là kỵ thần, thường đánh giá cao bản thân mà hạ thấp người khác, hay làm theo ý mình, không chịu sự ràng buộc của nề nếp xã hội, ham thích nhiều thứ nhưng tạp, rộng mà không tinh, thích xía vô chuyện người khác mà chỉ làm sự việc rối thêm.Chính Tài là hỷ dụng, người thông minh thành thực, tiết kiệm không lãng phí, giữ gìn bổn phận, làm việc rất cẩn thận chu đáo, không làm chuyện vượt quá khả năng và quyền hạn, yêu quí giữ gìn tiền bạc, chú trọng sự đảm bảo của cuộc sống, rất giữ chữ tín.Chính Tài là kỵ thần, có khuynh hướng bủn xỉn keo kiệt, không đủ phách lực, cuộc sống khô khan nhàm chán, so đo tính toán từng li từng tí, quá nguyên tắc cứng nhắc, không biết quyền biến nên hay gặp phiền phức không đáng có.Thiên Tài là hỷ dụng, người tính khảng khái mà tình cảm, miệng lưỡi lanh lợi, có tài giao tế, có phách lực, thích hoạt động, cá tính hào sảng, phong lưu, giỏi quyết đoán, có cái nhìn sắc sảo với vật chất, có thủ đoạn kinh tế, có duyên với bên ngoài, mẫn tiệp khéo léo.Thiên Tài là kỵ thần, cầu an hưởng lạc, thích được xu nịnh, thích nói thị phi, nói quá lời, mê tửu sắc, láu cá, giả dối.Cách Dương Nhẫn mà thêm Ấn nhiều, thân vượng, tính cấp mà nóng nảy, ngoài mặt ôn hòa bên trong cố chấp, không tin người khác, chủ quan tính rất mạnh, không dễ tiếp thu ý kiến, tư tưởng dễ rơi vào cực đoan.Mạng có Đào hoa, thủy lại nhiều, rất có duyên với người khác phái, nếu không biết tu dưỡng bản thân, sau dễ gặp chuyện rắc rối.Nữ mạng có Khôi canh, tâm tính quá cứng cỏi, ảnh hưởng đến hôn nhân.Nam mạng có Khôi canh, hay có ngôn luận mang tính công kích, thích sạch sẽ, tâm tư linh xảo, nếu cách cục tốt sẽ giàu sang phú quí.Không vong, quí nhân, Hoa cái cùng xuất hiện, người này có đại trí tuệ, tính tình điềm tĩnh, phẩm đức cao, là người luôn truy cầu chân lý và trí tuệ, hay được người đời khâm phục.Mạng có Hoa cái, tính tình điềm tĩnh, cao khiết, tư chất thông minh, giỏi văn học nghệ thuật, có khuynh hướng triết học và tôn giáo, nhưng không giỏi giao tế nên cô độc.Dáng vẻ Thương Quan tiết tú, xinh tươi khả ái, hồng phấn giai nhân.Thực Thần tiết tú, sáng láng, xinh đẹp, hiền thê lương mẫu.Dụng thần có lực, xinh đẹp, anh tuấn.Tài là dụng thần, ngũ quan trên mặt ngay ngắn.Thực Thần là dụng thần, tâm thái ung dung, dáng mập, cao to.Thương Quan là dụng thần, thể cách khôi ngô, lông mày cao, mắt to, cốt cách phối hợp cân xứng.Chính Quan là dụng thần, tóc tốt, có dáng người tài.Kiếp Tài là dụng thần, cốt cách cân xứng.Giáp mộc không bị khắc, dáng dong dỏng cao.Mậu thổ có Ấn, thể cách khôi ngô.Kim thủy tương sinh, da trắng.Mộc sinh hỏa, tú lệ khả ái.Quí thủy sinh Ất mộc, xấu người, đa tài nghệ.Thương Quan sinh Tài, anh tuấn.Thực Thần sinh Tài, nhân duyên tốt.Ấn tinh nhập dụng, tai to mắt to, thông minh.Cách Kiêu Sát, cao lớn, mày rậm che mắt.Cách Kiêu Kiếp, nhỏ con, xinh xắn, được người thương nhưng dễ hồng nhan bạc mệnh.Chính Quan bội Ấn, ngũ quan đoan chính.Kim thủy Thương Quan, rất thông minh.Mộc hỏa Thương Quan, cá tính sáng sủa, có tài văn.Hỏa thổ Thương Quan, có tiết tháo, nhưng ngạo nghễ, đánh giá bản thân rất cao.Thủy mộc Thương Quan, đa tài đa nghệ.Thân cường, Thương Quan thương tận, tuấn tú phong lưu, giao tế giỏi.Bính hỏa gặp chế, mặt tươi như hoa.Mạng có lục hợp, tính tình hiền đức, dáng mạo thanh tú.Thân cường, Thương Quan thương tận, xinh đẹp, nhan sắc khuynh thành.Nữ mạng có Thương Quan, hay chọn lầm chồng, trọng sự hào nhoáng bên ngoài.Thương Quan thấu can, có đầu óc khoa học kỹ thuật, giỏi cả kinh doanh, có thể nhậm chức cao trong công ty.Thương Quan quá nhiều mà không có Tài tinh chế hóa, cả đời bôn ba vất vả, không được thanh nhàn, dù khéo léo cũng nghèo.Thương Quan quá nhiều mà không có Tài tinh chế hóa, phần nhiều thông minh kiêu ngạo, khinh thường pháp luật, tự thị bất phàm, ưa hư vinh, thích nói chuyện cao xa, không thích bị ước thúc quản chế, nếu là người trên thì hà khắc với người dưới, là người dưới thì bất tuân thượng lệnh.Chính Ấn đóng ở Đào hoa, thông minh đẹp đẽ, đa tài đa nghệ.Lưu niên vận trìnhThương Quan là dụng thần, đại vận lưu niên tối kỵ Thất Sát, cũng kỵ Quan tinh, nếu gặp sẽ bị phá duyên, kiện tụng, phá tài…Thân vượng mà tứ trụ thương tận Quan tinh, vô Tài vận sẽ phát phúc.Dụng Quan mà gặp Thương Quan, vô vận Tài Ấn thì tuyệt diệu.Thân Sát đều vượng, không chế phục, vô vận Sát vượng dù quí cũng không lâu.Thân Sát cân bằng, vô vận giúp thân thì tốt.Nhiều Kiếp mà gặp Kiếp vận, đã nghèo vợ lại có tai ương.Bỗng nhiên hiển đạt thành gia, nhất định là tam hình gặp quí (nhân).Trụ không Tỷ Kiếp lại không Ấn, lúc nhỏ vô vận Tỷ Kiếp là do anh chị họ hay bạn bè nuôi nên người.Mạng có Tài Quan, thân vượng gặp Quí, vô vận Tài Quan sẽ thăng quan phát tài.Trụ có Dương Nhẫn, tuế vận Dương Nhẫn tương phùng, tài vật hao tán.Nữ mạng gặp Tài Quan, vô vận Thương Quan Kiếp Tài khắc phu, qua vận đó sẽ lấy chồng.Nữ mạng trụ có Quan tinh, vô Thương Quan vận khắc phu.Nữ mạng nhiều Tỷ Kiếp, vô Quan vận khắc phu.Thực Thần gặp kiêu, can năm có Thương Quan, trụ giờ là Dương Nhẫn, lưu niên hoặc đại vận xung hợp Dương Nhẫn, sinh sản gặp tai.Trụ có tân là Quan tinh, có Sửu là phu khố, tuế vận đến Sửu, khắc phu rất nặng.Tài đóng ở trụ ngày, gặp Tài vận liền phát.Thương Quan Ấn Tỷ, trong trụ Tài tinh yếu, vô Tài vận phát Tài.Thực Thần gặp Kiêu, tài vật hao tán.Mạng có Quan vận gặp Lộc, thăng quan tiến chức.Quan tinh trong mạng bị lưu niên đại vận hợp đi, sẽ di dời công tác.Ấn vượng lại vô vận đế vượng, chắc chắn đỗ đại khoa.Nhật chủ vượng, Tài Quan nhược, vô vận Tài Quan danh lợi đều có.Kim thần vào vận hỏa, giàu sang nổi tiếng.Quan quí quá nhiều, vô vận vượng địa tất sụp đổ.Thi cử tối kỵ Thương Quan gặp Quan.Trụ có Tài Quan, gặp Tài vận danh lợi thành tựu.Thương Quan vận gặp Thương Quan, bệnh tật liên miên.Thân vượng Tài nhược, vô vận Tỷ Kiếp, bệnh tật phá tài.Trụ không có Quan tinh, Thương Sát nhiều, vô Quan vận, bị tật về mắt hoặc bị tai nạn.Trụ tháng có sát hoặc Thương Quan, vô vận Thương Quan phòng mắt có bệnh.Ngày Kỷ Mão gặp Sát vượng, vận lại gặp Sát, trung niên thất bại.Kiêu Nhẫn vận lại gặp Kiêu Nhẫn, đề phòng có họa.Quan nhiều thân nhược vận gặp Tài, phòng quan tai.Tam hình gặp quí, quan chức thăng liền liền.Thiên Tài nhập Tài khố, gặp tuế vận xung, phát tài vô số.Trụ tháng Kiến lộc, hễ gặp Tài Quan, tự nhiên phát phúc.Thân nhược Tài nhiều, gặp Tỷ Kiếp vận phát tài.Mạng có Quan tinh, gặp vận Sát, chú ý sức khỏe và công việc, người có quan chức đề phòng tiểu nhân hãm hại, người thân nhược có thể nhiều bệnh.Mạng có Sát, gặp vận Quan, chú ý sức khỏe và công việc, người có quan chức đề phòng tiểu nhân hãm hại, người thân nhược có thể nhiều bệnh.Lưu niên xung đại vận mã tinh, xuất ngoại nhiều hoặc chuyển nhà.Thân vượng, đại vận lưu niên gặp Tỷ Kiếp, khắc cha, khắc vợ, bất lợi hôn nhân.Thân nhược gặp Tài vận, vì tiền tài phải bôn ba vất vả.Đại vận, lưu niên và tứ trụ cấu thành tam hợp Quan cục, thân nhược, thì vận đó xui, nhiều thị phi.Đại vận, lưu niên và tứ trụ cấu thành tam hợp Tài cục, thân nhược, thì vận đó hao tổn tiền bạc.Đại vận dụng thần đáo vị, vận đó bình an, hưng vượng, phát đạt.Trong mạng hỷ Thực Thần, vô lưu niên đai vận Kiêu thần, vận đó không may mắn, phát sinh nhiều sự cố, có ảnh hưởng xấu đến công việc, sức khỏe, cuộc sống.Nhật chi và đại vận chi hợp thành kỵ thần, đề phòng hôn nhân tai biến.Nhật can là Giáp mộc, lưu niên và trụ ngày thiên khắc địa xung, tai nạn ở đầu.Lưu niên xung khắc Dương Nhẫn, năm đó bất thuận, nhiều hình khắc.Kỵ Kiêu, gặp vận Kiêu, lưu niên Thực Thần, đề phòng thất nghiệp hoặc trưởng bối bị tai bệnh.Đại vận gặp Đào hoa, có duyên với người khác phái.Trụ có Quan tinh, đại vận lưu niên gặp Thương Quan, năm đó nhiều thương bệnh.Thân vượng, can ngày và can lưu niên hợp Tài, tài vận năm đó rất khá.Đại vận và tứ trụ cấu thành tam hợp Tài cục, thân vượng, tài vận cực tốt.Lưu niên và trụ tháng thiên hợp địa hợp, năm đó trong nhà có chuyện mừng.Trụ có Khôi canh, lại gặp Khôi canh lưu niên, có việc tấn thăng.Tuổi già tuế vận gặp Mã tinh, chủ khí hư, bệnh ở eo ở chân.Trụ có Mã tinh, gặp vận Tài năm Tài, phát tài lớn.Đào hoa đới Dương Nhẫn, nếu vận hoặc lưu niên xung Đào hoa, đề phòng vì sắc mà bị tai nạn.Đại vận, lưu niên và mệnh cục tương hình, năm đó bất lợi, hay gặp hình thương hoặc kiện tụng thị phi.Can năm bị can lưu niên khắc, chi năm lại nhập mộ ở chi lưu niên, năm đó có khả năng cha mất.Trụ giờ xung khắc trụ năm, tuế vận xung khắc thêm nữa, năm đó tính mạng cha mẹ rất nguy kịch.

3- Hôn nhân. Nhật tọa Tài, có Tướng tinh đóng ở đấy, nhất định lấy con nhà danh môn vọng tộc.Nhật yếu tọa Ấn, vợ hiền thục, đắc lực.Nhật tọa Thiên Ấn, vợ hiền thục, đắc lực.Nhật tọa Quí nhân, vợ hiền thục xinh đẹp, có uy vọng.Can ngày vượng, Chính Tài Thiên Tài cũng vượng, vừa giàu vừa nhiều thê thiếp.Chi ngày là Tý Ngọ Mão Dậu, vợ đẹp.Chi ngày là Thìn Tuất Sửu Mùi, vợ bình thường.Chi ngày là Dần Thân Tỵ Hợi, vợ đôn hậu.Lộc của can ngày qui ở giờ, quí, được nhiều người hâm mộ.Chi ngày tọa Lộc của chi năm, hoặc Quí thần, vợ được quốc gia tấn phong.Thiên Ất quí nhân nhiều, do giao tế nhiều nên trở thành người chuyên gia về giao tế.Can ngày vượng, lại gặp Dương Nhẫn nhiều, hôn nhân dễ biến chuyển.Tứ trụ nữ mạng gặp Mã, trong chi của Mã có Quan Sát, lấy chồng xa hoặc lấy chồng nước ngoài.Tứ trụ nam mạng gặp Mã, trong chi của Mã có Tài tinh, lấy vợ xa hoặc lấy vợ nước ngoài.Thiên Tài vượng lại đắc vị, thiếp hơn thê ; Chính Tài vượng, thê không nhịn thiếp.Mã nhập thê cung, ăn lộc của vợ.Hàm trì ở ngày, nhờ vợ mà giàu.Nam gặp Tài nhiều thân nhược, hay nghe lời vợ.Trong chi có ẩn Tài, có vợ bé.Tài là dụng thần, vợ hiền và đẹp, nội trợ giỏi.Thương Quan tựu Lộc, Tài tinh đắc lệnh, sớm lấy được con gái nhà danh giá.Trụ có Thiên Tài, yêu vợ thì ít yêu thiếp thì nhiều.Thương Quan bị khắc chế, lấy vợ vì nghĩa.Tài tinh tự tọa Trường sinh, không bị xung, vợ sống lâu.Nhật tọa Chính Quan, vợ tướng mạo đoan chính, hiền lành dịu dàng.Nhật tọa Tài, gia vụ và tài vụ đều do vợ quản lý.Nhật tọa Chính Tài, thân vượng, chi ngày lại được Thực Thần sinh Tài, hôn nhân rất mỹ mãn, được vợ hiền thục suốt đời bên cạnh, cưới xong gia đạo ngày càng thịnh vượng.Cách Chính Tài, thân vượng, trong mạng lại có Chính Quan, vợ chồng tình cảm gắn bó keo sơn.Chi ngày là hỷ dụng, vợ hiền tuệ, lại là nội trợ giỏi, nếu thêm Thiên đức Nguyệt đức, vợ tính từ thiện, khảng khái hay bố thí, có cả tài lẫn đức.Tài vượng thân cường, vợ đẹp lại giỏi giang, biết nội trợ, dễ nhờ vợ mà quí.Nhật tọa Tài, mà Tài là hỷ dụng, tất được tiền của vợ.Nhật chủ rất yếu, Dương Nhẫn đóng ở chi ngày, được vợ giúp cho rất nhiều, mà vợ lại rất cơ trí thông minh, hôn nhân rất mỹ mãn.Chi ngày có Thực Thần đóng, mà lại là hỷ dụng, không có Kiêu khắc, vợ béo mập, sống hậu đạo, hiền tuệ trì gia.Chi ngày có Chính Quan đóng, mà lại là hỷ dụng, không có Thương Quan khắc, vợ đoan trang, dịu dàng hiền thục, đắc lực trì gia.Chính Tài sinh Chính Quan, mà Tài Quan là hỷ dụng, tất được giúp đỡ, nhờ vợ mà quí.Nhật chủ nhược, Tỷ Kiên đóng ở chi ngày, vợ giỏi giang, giúp đỡ nhiều.Thân cường Sát yếu, Tài tinh trợ Sát, vợ giỏi mà lại giàu, hoặc nhờ tiền của vợ mà giàu.Thân cường Quan yếu Thương Quan nhiều, Tài tinh hóa Thương Quan, vợ giỏi mà lại giàu, hoặc nhờ tiền của vợ mà giàu.Tài vượng thân nhược, có Tỷ Kiếp gánh bớt Tài giúp thân, vợ giỏi. Tài khắc Ấn, có Quan tinh hóa Tài sinh Ấn, vợ giỏi.Tài tinh có Thiên Ất quí nhân, hoặc tọa Thiên Ất quí nhân, mà lại là hỷ dụng, vợ xinh đẹp, thông minh thiên phú, cũng còn ý nghĩa lấy được con nhà khá giả.Thương Quan thương tận chi có hợp, lấy không qua mai mối.Nhật tọa phu tinh, mà là dụng thần, chồng đạ quí, vợ chồng hòa thuận.Tài đắc địa lợi cho chồng.Thực Thần đắc địa lợi cho con.Nữ mạng không có Sát, có một Quan cũng có thể làm phu nhân.Thương Quan không gặp Quan, là người phụ nữ trinh khiết.Quan đóng trên Mã tinh, chồng rất vẻ vang, vàng bạc đầy nhà.Tài và thân đều có lực, cả đời sống với chồng không lo.Quan, Thực, Lộc đều vượng, có một Ấn trợ, suốt đời được sủng ái.Không có Tài làm hại Ấn, có Thiên đức hay Nguyệt đức đóng ở ngày, được tài sản của cha mẹ, lấy được chồng sang, phùng hung hóa cát Chi ngày Tý Ngọ Mão Dậu, lấy tuổi Tý Ngọ Mão Dậu rất tốt.Vong thần, Kiếp sát, Dương Nhẫn, Thiên ất cùng sinh ở Lộc, Mã, người có nhan sắc hơn người lại rất trinh khiết.Thất Sát ở Trường sinh, tất lấy chồng quí.Tài Quan Ấn thụ, tất vượng phu.Thực Thần quá nhiều, không thấy phu tinh là người phụ nữ trinh khiết.Thiên đức Nguyệt đức gặp Ấn, vợ của quan to, được phong chức ở hai nước.Ấn vượng Quan nhẹ, chồng ở rể.Thương Quan thương tận, không có Quan mà có Tài, là mình làm lẽ lấy chồng già.Một Sát thanh thấu, gặp mộ, lấy chồng quí.Sát cường Quan nhược, ly hôn sau đó tái giá.Quan cường Thương nhược, giúp chồng gây dựng cơ nghiệp.Đào hoa ở ngày, vợ chồng đẹp người, phong lưu giỏi giang.Mạng tòng Sát, tất lấy được chồng sang.Đông kim tọa cục, vợ chồng ăn ở suốt đời.Nữ mạng Thương Quan nhiều tất tái giá.Thân suy Tài vượng, phá tài tổn vợ, hoặc vợ không theo chồng.Tỷ Kiên Kiếp Tài, phá tài tổn vợ.Tài gặp mộ khố, vợ có bệnh hoặc không giỏi.Thân vượng không Tài tinh, không có vợ hoặc tổn vợ.Thìn Tuất Sửu Mùi toàn, khắc phối ngẫu.Tài Quan đều rơi vào không vong, nửa cuộc đời mất con khắc vợ, phiêu bạt xứ người.Thê tinh thất lệnh, nửa đường gãy gánh.Mạng có hỏa hun đốt thổ, thân tất cô đơn.Cung thê hợp thành Sát cục khắc thân, có vợ khó giữ được vợ.Cung thê xung với cung tử tức, khắc vợ tổn con.Chi ngày đóng Dương Nhẫn hoặc Kiếp Tài, tính của vợ nóng nảy, cương liệt, quật cường.Nhật tọa Thực Thần lại gặp Kiêu, vợ gầy gò hay sinh bệnh.Nhật tọa Chính Quan bị Thực Thương khắc chế, vợ hay bệnh.Trụ có Giáp Ất Bính Đinh không bị gián đoạn, không lợi cho vợ.Ngày giờ Dương Nhẫn gặp Kiêu, nửa chừng thê nhi hao tổn.Nhật tọa Mộc dục, có vợ đẹp, nhưng nên tránh thị phi.Trụ có Thương Kiêu, con hèn vợ dở.Tài bị tuyệt Quan hưu tù, lấy vợ trễ có con muộn.Tài vượng Kiếp nhiều, phòng huynh đệ đoạt vợ.Nhật tọa Thất Sát, mà lại là kỵ thần, tính tình của vợ quá cứng cỏi, vợ chồng không tránh khỏi hay tranh chấp.Tài tinh gặp Tỷ Kiếp, mà không có cứu trợ, đề phòng vợ có họa bất ngờ.Ngày có Thất Sát Thiên Ấn, vợ hay sinh non.Tỷ Kiếp nguyệt kiến vượng, còn trẻ đã mất vợ.Gặp cả Suy lẫn Tử, đến già không vợ con.Trong trụ hai Mậu hợp một Quí, kết hôn hai lần.Tứ trụ thuần dương, nam tất cô.Tứ trụ thuần âm, nữ tất quả.Can chi của ngày tương chiến, hôn nhân không thuận.Chính Tài Thiên Tài nhiều, phong lưu háo sắc, vợ chồng không hòa thuận.Nam mạng Ấn nhiều khắc vợ.Tỷ Kiếp nhiều, lấy vợ muộn thì tốt.Thương Quan rõ, kén chọn rất kỹ, cho nên muộn kết hôn.Kiêu thần rõ, hôn nhân dễ vỡ.Kiêu Kiếp trùng trùng, muộn kết hôn.Tài Quan không thấy, muộn kết hôn.Thiên can hợp nhiều, duyên vợ đổi thay.Can ngày có hai Tài tinh đến hợp, đó là dấu hiệu hai vợ.Sát nhiều lại có Tài sinh Sát, vợ không giúp gì được.Quan nhiều dụng Ấn, Tài tinh đến phá, vợ không giúp gì được.Chính Tài bị Tỷ Kiên hoặc Kiếp Tài hợp, Tài lại tọa Mộc dục Đào hoa, vợ tư thông với người khác.Ngày âm thác dương sai, hôn nhân không thuận.Chính Tài Thiên Tài thấu can, dấu hiệu có hai vợ.Mạng của nữ:Nữ mạng Ấn nhiều, dâm loạn.Tài nhiều chú ý khắc chế bản thân.Nữ Quan tinh nhiều, tiện, hại chồng.Quan tuyệt, lại hưu tù, góa bụa.Nữ gặp Thương Quan nếu không lấy chồng xa, e khắc chồng.Kiêu Ấn trùng trùng, sinh ly tử biệt.Trụ không có Quan tinh, làm vợ lẽ.Trụ có Kiêu, Thực và Thương Quan, chồng con đều tổn.Ngày Quí có Mậu là Quan, còn trẻ đã lấy chồng già, trụ còn thấy Hợi Dậu, đóng cửa không lấy chồng là thượng sách.Nữ không có Tài Quan Ấn Thực, không nghèo khổ thì cũng làm nghề XX.Trong trụ Quan nhiều mà rõ, Tài ẩn mà vượng lại đới Sát, tất nhân tửu sắc tư tình mà có tiền.Hình không ở Quan Sát, tái giá mấy lần chưa thôi.Nhật Nhẫn gặp Sát, không là vợ lẽ cũng là ni.Tỷ Kiếp trùng trùng tất tranh chồng, mà chồng cũng quên nghĩa của vợ.Nữ Ấn nhiều, đến già không con.Thương Quan vượng, còn trẻ chồng đã mất.Ngày giờ tương hình, khắc chồng khắc con.Giáp Kỷ tương hợp, hôn nhân bất thuận.Ất Canh tương hợp, hôn nhân bất thuận.Ngày giờ Hoa cái ở Ấn, khó có chồng con.Không Tài không Ấn thấu Thương Quan, ăn hiếp chồng.Thực, Quan đều không thấy, phòng không chiếc bóng.Quan Sát quá vượng lại không có chế hóa, chồng không nghe vợ, chồng không ra gì.Quan Sát nhược lại tiết khí, Tài tinh lại yếu, chồng hèn, không giỏi.Thân vượng không Quan Sát, háo sắc, khắc chồng.Ngày Giáp Dần khắc chồng.Ngày Mậu Thân khắc chồng.Tài quá suy, khó giúp chồng.Thực Thần nhiều, không phải người trinh khiết.Đinh Nhâm hợp, tất dâm loạn.Tham Tài hoại Ấn, không phải người phụ nữ lương thiện.Đảo sáp Đào hoa, Mộc dục lõa hình, không phải thị tỳ cũng là ni (Năm có Đào hoa, nhật nguyệt thời tam hợp).Tài suy Ấn tuyệt, lấy chồng sớm.Tài vượng Quan hung, không ni thì XX.Kim Thần đới Giáp, khắc chồng.Thủy tụ nơi vượng địa, cô gái bán hoa.Thập ác đại bại, dâm ác phá gia.Đào hoa Kiếp sát, nhỏ đã vào cửa XX, đến già phải xin ăn.Nữ có Mão Dậu nhiều, sẩy thai, khắc con.Nữ mạng can giờ là Thương Quan, chi giờ tọa Đào hoa, hôn nhân không được tốt.Nữ mạng Đào hoa có hợp, bên ngoài ngay thẳng, bên trong đa tình.Ngày giờ gặp Khôi canh, khắc chồng.Thủy mạng thổ nhiều thường ở góa.Nhật tọa Thương Quan, thân lại vượng, khắc chồng, phải kiềm chế mới giữ được hôn nhân hòa thuận.Quan Sát nhiều, trong chi có ẩn Tài, mạng lại có Đào hoa, nên thận trọng chọn người kết giao, hay đứng núi này trông núi nọ.Mạng có Đào hoa, can hợp chi hình, tâm ý không kiên định, tửu sắc hoang dâm.Bất lợi hôn nhân còn có câu thơ: Nữ mạng Đào hoa có hợp, bên ngoài ngay thẳng, bên trong đa tình.: Mệnh cục Tỷ Kiếp vượng, nên tìm đối tượng có Thực Thương vượng ; Mệnh cục Quan Sát vượng, nên tìm đối tượng có Ấn Kiêu vượng ; Mệnh cục Thực Thương vượng, nên tìm đối tượng có Tài vượng ; Mệnh cục Tài vượng, nên tìm đối tượng có Quan Sát vượng ; Mệnh cục Ấn Kiêu vượng, nên tìm đối tượng có Tỷ Kiếp vượng.
Hết.



Quang Đạo: Chủ nhiệm Câu lạc bộ Dịch học Lý số Nghệ An
ĐT: 0983225079
Mail: lequang306@gmail.com
Nhận xem số Tử vi, xem Quẻ dịch, xem ngày và tư vấn Phong thuỷ.

Thứ Ba, 26 tháng 11, 2013

KHẢ NĂNG DỰ ĐOÁN CỦA CHU DỊCH



KHẢ NĂNG DỰ ĐÓAN CỦA CHU DỊCH

Dịch hay Chu Dịch gồm hai phần: Dịch kinh và Dịch truyện. Dịch kinh là một cuốn sách dùng để chiêm bốc, gồm 64 quẻ, xuất phát từ tám quẻ gốc ( bát quái) , mỗi quẻ có 6 vạch. Dưới mỗi vạch có lời đoán theo các mục như hôn nhân, xuất hành, gia đạo...
Lời đoán có thể kèm theo những lời khuyên đạo đức. Người đoán quẻ lập luận theo nguyên lý "âm dương giao cảm"
Tương truyền bát quái do Phục Hy, một nhân vật thần thoại thời thái cổ làm ra. Lời đoán gọi là Quái từ, Hào từ. Quái từ do vua Văn Vương nhà Chu (thế kỷ 12 trước Công nguyên), còn Hào từ do Chu Công, em Văn Vương làm ra. Dịch truyện gồm 10 thiên, gọi là "Thập dực ". Đó là một tác phẩm triết học, trong đó thiên "Hệ từ " có nội dung phong phú hơn cả.
Nhiều người đã thảo luận xuất xứ của Dịch. Theo cố giáo sư Cao Xuân Huy, một học giả hàng đầu, Dịch Kinh là sách bói, ra đời sau Khổng Tử, còn Dịch truyện gồm nhiều tư tưởng hỗn hợp, mà ở Hệ từ nỗi bật tư tưởng Lão Trang, với bản thể luận và biện chứng pháp của Đạo gia. Vậy, Dịch chỉ có thể hình thành trong khoảng mấy trăm năm cuối đời Chu, thời Xuân thu - Chiến quốc.
Đáng chú ý là khả năng dự báo của Dịch. Thiệu Vĩ Hoa, một "ngôi sao Dịch học", đã viết cuốn Chu Dịch với dự đoán học, với số lượng phát hành kỷ lục tại Trung Quốc. Sách đã được dịch ra tiếng Việt. Tương truyền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đang đàm đạo về Dịch thì có tiếng gõ cửa, ông liền bấm một quẻ và đoán được người hàng xóm sang mượn búa. Mở cửa thì đúng như vậy! Ông được xem là người biết việc trước và sau 500 năm, trên cơ sở bốn câu sấm ký, đoán đúng 81 năm Pháp thuộc của đất nước: “Cửu cửu càn khôn dĩ định/Thanh minh thời tiết hoa tàn/Trực đáo dương đầu, mã vĩ. Hồ binh bát vạn nhập Tràng An”.
Nếu vậy thì câu xưng tụng của Thiệu Vĩ Hoa, xem Chu Dịch là (Đại số học vũ trụ), (Hòn ngọc của vương miện khoa học) không phải là quá lời.



- 64 quẻ dịch - Ý nghĩa ứng nghiệm
1- Càn. Điềm triệu : Khốn long đắc thủy- Rồng gặp nước.
Đầu tiên, lần đầu, khởi đầu, đứng đầu, ông già, đầu bạc, cứng, mạnh, tốt, kiêu sa, vàng bạc.
2- Khôn. - Điềm triệu : Ngạ hổ đắc thực – Hổ đói được mồi.
Nhu thuận, đức dày, đất đai, mềm, đám đông, tiểu nhân, bà già, phụ nữ, mẹ, tấm vải, áo mặc, thuận tòng, đi về phía Tây nam lợi, chịu theo mà được lợi.
3- Truân. – Điềm triệu : Loạn tu vô đầu – Rối như tơ vò.
Khó khăn, vất vả, yếu đuối, ngần ngại, do dự, phải nhờ sự giúp đỡ, rối loạn,gian nan, chẳng mất, còn đầy, chưa làm, hiện ra mà không mất chỗ.
4- Mông. – Điềm triệu : Tiểu quỷ thâu tiên – Quỷ nhỏ dụng tiên.
Chưa sáng sủa, mờ mịt, chưa đạt thành, ngu dại, ngây thơ, không hiểu, còn non, trẻ con, khó thông suốt, không nói lại. Có âm mưu mà không biết.
5- Nhu. – Điềm triệu : Minh châu xuất thổ - Ngọc sáng hiện ra.
Chờ đợi, được ăn uống, không tiến lên được, nhàn hạ, đều đều.
6- Tụng – Điềm triệu : Nhị nhân tranh lộ - Hai người tranh đường đi.
Kiện cáo, bàn luận, tranh luận, bất an, có tranh chấp, trái ý nhau, việc mới manh nha đủ thứ tranh cãi. Không thân.
7- Sư – Điềm triệu : Mã đáo thành công – Thành công đắc ý.
Đông đúc, quần chúng, tắc đường, hãm bí, phải lo, không tự giới, không tự giác, ra quân, chinh phạt.
8- Tỉ - Điềm triệu : Thuyền đắc thuận phong – Như thuyền gặp gió.
Gần gũi, hòa hợp, tương trợ, thông thuận, quan hệ qua lại, tiếp xúc, chọn lựa, người thân.
9- Tiểu súc – Điềm triệu : Mật vân bất vũ – Mây đen mà không mưa.
Ngăn cản, chờ đợi, cơ cực, ít ỏi, cô quả, không hòa hợp, bị tiểu nhân ngăn cản, phải theo nhu đạo, mềm mỏng, tiến thoái nên đúng lúc.
10- Lý - Điềm triệu : Phượng minh Kỳ Sơn – Chim phượng kêu ở Kỳ Sơn.
Nghi lễ, khuôn phép, lý lẽ, lời nói, chừng mực, lên đường, định chí, có việc đụng chạm đến người.
11- Thái – Điềm triệu : Hỷ báo tam nguyên – Tin vui báo đỗ giải nguyên.
Thông suốt, thông hiểu, quen biết, quen thuộc, đạt thành, thu hoạch tốt, kết quả tốt, có sự trợ giúp, hòa thuận.
12- Bĩ – Điềm triệu : Hổ lạc hàm khanh – Hổ rơi xuống hố.
Bế tắc, không đạt kết quả, không thông cảm, mỗi người một ý, nỗ lực vô ích, không về lại được, không được đi khỏi, trái ý, không nên kéo dài.
13- Đồng nhân – Điềm triệu : Tiên nhân chỉ lộ - Có người chỉ đường.
Cùng với người, đồng tâm hợp lực, một cặp, đôi bạn, lấy nhân đức làm nên thân thiết, hợp sức với người, chỉ sợ thân thiết.
14- Đại hữu – Điềm triệu : Nhuyễn mộc nô tước – Chặt cây bắt thêm được chim sẻ.
Có nhiều, được nhiều, rộng rãi, lớn lao, đám đông, nhiều ơn huệ được hưởng, thuận hòa, gặt hái nhiều.
15- Khiêm – Điềm triệu : Nhị nhân phân kim – Hai người chia vàng.
Khiêm tốn, lún xuống, thoái lui, thối chí, hỏng việc, bình tâm mà làm, chớ tự kiêu.
16- Dự - Điềm triệu : Thanh long đắc vị - Rồng xanh gặp mây.
Vui vẻ, tốt lành, vui hợp, đạt thành, do dự, chờ, dự phòng, động trong âm u, ứng cử.
17- Tùy – Điềm triệu : Súy xa khảo nha – Xe rơi xuống rãnh, sa vào bùn.
Theo người, thuận theo, không chí hướng, có gái theo hoặc theo gái theo trai, theo bạn, chiều người.
18- Cổ - Điềm triệu : Súy ma phân dao – Gió quật trở lại.
Đổ nát, đòi sửa lại, tính hối cải, dừng lại, cha mẹ gây liên lụy, buồn bực đến con cái, nhiều việc rắc rối, không yên lòng, trộm cướp, tang tóc.
19- Lâm – Điềm triệu : Phát chính thi nhân – Làm điều nhân nghĩa.
Tìm đến nhau, đi với nhau, lớn thịnh, tốt tươi, việc lớn, tới, đến, tu tâm dưỡng tính, phòng khi mất, có việc xấu vào tháng tám, tháng dậu, tháng mùi.
20- Quan – Điềm triệu : Hạn bồng phùng hà – Hạn hán lâu gặp mưa rào.
Xem xét, dòm ngó, nhìn nhận đánh giá phân tích, chỉ xem mà không tiến hành, không làm, thấy có kẻ gặp việc xấu.
21- Phệ hạp – Điềm triệu : Cô nhân ngộ thực – Đang đói được ăn.
Ngăn cách, ăn uống, chịu hình phạt, chịu oan, bị tù, bị cắn, bấu véo, vặn vẹo, phản lại, việc nội bộ chưa rõ.
22- Bí – Điềm triệu : Hỷ khí doanh môn – Vui mừng trước cửa.
Trang sức, trang điểm, sửa sang, đẹp đẽ, an lành, hạn chế, trật tự, văn minh, vừa phải, nhẹ nhàng.
23- Bác – Điềm triệu : Ưng thước đồng lâm – Chim ưng và chim sẻ ở cùng chỗ.
Gặp thủ đoạn xấu, gặp tiểu nhân hại, tiêu tốn, hoang phí, bóc lột, mục nát, hoang phế, buồn thảm, xa lìa nhau, nhạt nhẽo nhau, gạt bỏ, mất đi, đến rồi lại đi,nên âm thầm, chớ lòe loẹt.
24- Phục – Điềm triệu : Phu thê phản mục – Vợ chồng bất hòa.
Bị phản, bạn xấu, bạn đến, bế tắc, trở lại, đảo ngược, quay về, phục hưng, phục hồi.
25- Vô vọng – Điềm triệu : Điểu bị lũng lao – Chim rơi vào bẫy.
Làm bừa, không lề lối, không qui củ, có việc che giấu, ẩn tàng, u ám, còn vọng động, chưa thi thố ra được, thất vọng, không hiệu quả, tai nạn, bệnh tật bất ngờ.
26- Đại súc – Điềm triệu : Trần thế đắc khai – Mắt trần đã mở
Tích lũy, chứa góp, để dành, đoàn tụ, hợp hòa, nhiều phúc ân sinh ra, được hưởng nhiều, ân huệ dồi dào, thời vận tới, có lộc ăn, đạt kết quả.
27- Di – Điềm triệu : Vị thủy phong hiền – Nhờ cậy người khác.
Nuôi dưỡng, ăn uống, bồi dưỡng, hao tốn, việc ăn uống phải đổi khác, bất hòa, cẩn thận ăn uống, cẩn thận lời nói, an tĩnh, an dưỡng, nuôi điều chính.
28- Đại quá – Điềm triệu : Dạ mộng kim ngân – Nằm mơ được vàng.
Có việc quá đi, quá đáng, có lỗi, có họa, gặp điên đảo, hiểm ác, thời đen tối, không tự lập được, hết quyền, chết vì gặp thái quá, có bệnh.
29 – Khảm – Điềm triệu : Hải đề lao nguyệt – Mò trăng đáy ao.
Hãm hiểm, rủi ro, nước lạnh, đêm tối, tối tăm, sa sút, đổ vỡ, thoái lui, nhập vào, đóng cửa lại, không bình an, không chí hướng, đi xuống, thấm xuống, trắc trở gập ghềnh, bắt buộc, kìm hãm, xuyên sâu vào trong.
30- Ly – Điềm triệu : Thiên quan tứ phước – Hưởng phúc trời ban.
Chia lìa, xa cách, nam nữ bất hòa, sáng láng, trống trải, đi lên, văn chương thư tín, nhu thuận, bám vào, dựa vào, phô trương ra ngoài, cửa nhà không yên, có việc xui rủi.
31- Hàm – Điềm triệu : Nanh nha xuất thổ - Mầm non lên khỏi mặt đất.
Giao cảm, cảm xúc, cảm ứng, nghe thấy, xúc động, nam nữ có tình ý, nữ mạnh bạo, chủ động, nhạy cảm, nhận biết, vô tư, tự nhiên.
32- Hằng – Điềm triệu : Ngư lai chòng võng – Cá tự chui vào lưới.
Lâu dài, chậm chạp, khó thay đổi, thâm giao, nghĩa cố tri, thường ngày, lối cũ, thói quen, không thay đổi, việc cưới xin.
33- Độn – Điềm triệu : Nùng vân tế nhật – Mây đen che mặt trời.
Thoái lui, ẩn trốn, trá hình, trốn tránh, lui về, không nên làm tiếp, cao chạy xa bay, đi mất, khoan khoái.
34- Đại tráng – Điềm triệu : Cộng sự đắc mộc – Người thợ được gỗ tốt.
Lớn mạnh, mạnh tiến, tự cường, vượng sức, thịnh đại, lên trên, đơn độc, tự mình, được bạn, ngưng lại, danh vọng.
35- Tấn – Điềm triệu : Sử địa đắc kim – Đào đất được vàng.
Tiến lên, trưng bày, ra mặt, dùng tốt, thuận lợi, thông lý, sáng sủa như trời mới sáng, có đức tốt, tấn tới.
36- Minh di - Điềm triệu : Qua hà chiết kiều – Qua sông phá cầu.
Tổn hại, đau thương, bệnh tật, buồn lo, đau lòng, u uất, tối tăm, bóng đêm, mất đức, mất hòa, tiêu tan tự trong, mù tối, bị thương tổn.
37- Gia nhân – Điềm triệu : Quan thủ lân chi – Sum họp gia đình đông đúc.
Người trong nhà, đàn bà trong nhà rắc rối, người nhà bất chính, ngấm ngầm có biến, có họa chỉ ở trong.
38- Khuê – Điềm triệu : Thái công bất ngộ - Khương tử nha không gặp thời.
Chia lìa, trái ý, chống đối, không gặp, phản bội, đe dọa, cô quả, ngõ hẹp gặp ác nhiều, ra oai, giả tạo, chỉ ở ngoài.
39- Kiển – Điềm triệu : Vũ tuyết tải đồ - Mưa tuyết ngăn đường.
Tai nạn, ngăn cản, chậm lại, khó khăn, ngừng lại, gian nan hiểm trở. Đi về Tây nam thông nhưng quay lại gặp khó.
40- Giải - Điềm triệu : Ngũ quan thoát nạn – Thoát được tai nạn.
Cởi mở, giải tán, tan điều xấu, thoát ách, thong dong, hòa xướng, hết ưu tư phiền não, dễ dàng, bừng vui, cơ hội tốt phát động thành công, loan truyền, ban phát, ân xá, bung ra, ly tán.
41- Tổn – Điềm triệu : Tổn kỷ lợi nhân – Tổn mình lợi người.
Tổn thất, thiệt hại, hư thối, dữ, đổ bể, hao tốn hai nơi, thiếu nền tảng, hỏng việc từ đầu, ít thành thực, đề phòng sự ngầm hại.
42- Ích – Điềm triệu : Khô mộc khai hoa – Cây khô nở hoa.
Giúp ích, thêm lợi, vượt lên, có giúp đỡ ngầm, có phúc khánh, tăng tiến, khó khăn lâu được giải tỏa, thành công vui vẻ.
43- Quải – Điềm triệu : Du phong thoát võng – Ong thoát lưới nhện.
Rạn nứt, đổ vỡ, cương quyết, dứt khoát, thoát nạn, chập chững, luộm thuộm, hủy diệt cái xấu, có đối thủ, cứng diệt mềm.
44- Cấu – Điềm triệu : Tha hương ngộ hữu – Đi xa gặp bạn bè.
Gặp gỡ bất ngờ, gặp mệnh, thế lực ngầm, mở lối đi lên, cấu kết, liên kết, bắt tay thông đồng, nữ giới manh động, dính nhau, lấy vợ lấy chồng.
45- Tụy – Điềm triệu : Ngư lý hóa long – Cá chép hóa rồng.
Nhóm họp, hội họp, tụ tập lại, biểu tình, dồn đống, tốn lớn để đạt mục đích, hàng đắt tiền.
46- Thăng – Điềm triệu : Chỉ nhật cao thăng – Như mặt trời lên.
Thăng tiến, bay lên, tới trước, thăng chức, bước lên, cao vời như đền tháp, tích thiện, hành thuận.
47- Khốn - Điềm triệu : Loát hãn du thê – Cho leo cây rồi rút mất thang.
Cùng quẫn, bị người làm ách, lo lắng, mệt mỏi, nguy cấp, lo âu khốn khổ, bị bới móc tội ra, bị lên án, hết vận, mắc chông gai, không giải thích, thuyết phục được người.
48- Tỉnh – Điềm triệu : Khê tỉnh sinh tuyền – Giếng khô lại có nước.
Yên lặng, bất động, không được sử dụng, đâu vẫn yên đó, việc không thành, nghi ngờ, ngưng đọng, lo âu, công dã tràng, khó thay đổi.
49- Cách – Điềm triệu : Hạn miêu đắc vũ – Lúa hạn gặp mưa.
Thay đổi, cải cách, bỏ lối cũ, trở mặt, cách xa, tai ương, mạt vận, hết sinh khí, hết cách.
50- Đỉnh – Điềm triệu : Ngư ông đắc lợi – Trai cò đánh nhau ngư ông được lợi.
Định việc, thông thuận, lành nhiều dữ ít, an định, vững chắc, hứa hẹn, theo mới, tương ứng, việc lớn thành công tuyệt đỉnh.
51- Chấn – Điềm triệu : Thiên hạ dương danh – Danh vang thiên hạ.
Chấn động, sợ hãi, e sợ, âm thanh, tiếng động, nổ vang, phấn khởi, tai ương bất kỳ, lo sợ nơm nớp, chìm đắm, mỏi mệt.
52- Cấn – Điềm triệu : Sơn trạch trùng điệp – Trở ngại trùng trùng.
Thời ngưng trệ, đình chỉ, mọi việc đều ngãng trở, dừng lại, thôi, ngăn cấm, không có trợ lực, không được cứu vớt, vừa đúng chỗ, giữ mức cũ.
53- Tiệm- Điềm triệu : Hồng nhạn cao phi – Chim hồng bay cao.
Tiến dần lên, tuần tự, dần dần, không vội, có nữ đến, đi tới, bậc thang, từng bước.
54- Qui muội – Điềm triệu : Duyên mộc cầu ngư – Đơm đó ngọn tre.
Lôi thôi, chen lấn, rối ren, gái về nhà chồng, chưa rõ, mờ mịt, tiến lên bất lợi, không kết quả.
55- Phong – Điềm triệu : Cổ kính trùng minh – Gương cũ sáng lại.
Có nhiều, thịnh đại, được mùa, nhiều người góp sức, nở lớn, điều tốt trở lại.
56- Lữ - Điềm triệu : Tức điểu phần sào – Chim cháy mất tổ.
Khách, ở đậu, tạm trú, ít người thân, tạm thời, đi xa khách bất chính, chán nản, mất danh giá, nhu thuận, lưu vong.
57- Tốn- Điềm triệu : Cô chu đắc thủy – Thuyền mắc nạn được thủy triều lên.
Thuận theo, nhập vào, vào trong, theo nhau đồng hành, có sự giấu diếm ở trong, có thay đổi canh cải, ẩn đi.
58- Đoài- Điềm triệu : Lưỡng trạch tương tế - Hai lạch hợp thành sông.
Đẹp đẽ, cười nói, vui thích, cãi vã, nói năng, thiếu nữ, con gái, ở ngoài đến,việc có sự giúp đỡ của đàn bà, hợp tác, dễ xiêu lòng.
59- Hoán - Điềm triệu : Cách hà vọng kim – Thấy vàng bên kia sông.
Ly tán, xa lìa, đi xa, trôi nổi, tan mất, thay đổi chỗ ở, đổi thay tứ tung, tan tành, khó an thân, tán tài, mất sức.
60- Tiết - Điềm triệu : Trảm tướng phong thần – Chém tướng phong thần.
Tiết chế, chừng mực, kiềm chế, nhiều thì không tốt, tiết ra, tràn ra. Thôi không làm, bất an khổ sở, bất lực, hạn chế trăm đường, tiết kiệm, tiết chế quá thì xấu.
61- Trung phu – Điềm triệu : Hành tẩu bạc băng – Chạy trên băng mỏng.
Tin theo, không ngờ vực, cả tin, hấp tấp, vội vàng, vì quá tin mà gặp xấu, trung thực thì thành công.
62- Tiểu quá - Điềm triệu : Phi điểu di âm – Chim bay để lại tiếng kêu.
Nhiều tiểu nhân quá, hèn mọn, nhỏ nhặt, bẩn thỉu, yếu lý, gian nan, vất vả, buồn thảm, áp bức, không đủ, thu rút, mất mát, chỉ làm được việc nhỏ, làm theo cách phụ.
63- Ký tế - Điềm triệu : Kim bảng đề danh – Bảng vàng có tên.
Đã xong, đã thành, có tên, đạt kết quả, không lâu bền, ban đầu tốt, sau rối ren.
64- Vị tế - Điềm triệu : Tiểu hồ ngật tế - Con chồn nhỏ qua sông.
Chưa xong, dở dang, chưa được, nửa chừng, gặp xui, còn thay đổi, mạt vận, trái thời, trái phương hướng, gặp hiểm, đi vô ích, hi vọng lần sau.

Sự ứng nghiệm có khi theo thoán từ, có khi theo hào động, có khi theo điềm triệu của quẻ, luôn luôn theo đặc trưng thời quẻ, nên chú ý tất cả các khía cạnh.


Quang Đạo: Chủ nhiệm Câu lạc bộ Dịch học Lý số Nghệ An
ĐT: 0983225079
Mail: lequang306@gmail.com
Nhận xem số Tử vi, xem Quẻ dịch, xem ngày và tư vấn Phong thuỷ.
 

Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013

Lê Quý Đôn với Thần Khê định số

Lê Quý Đôn là nhà Bác học, cũng là nhà Âm Dương học nổi tiếng của Việt Nam ta. Sinh thời ông từng được Chúa ban biển hiệu: "Thiên hạ vô tri vấn Bảng Đôn", có nghĩa là mọi người trong thiên hạ, ai không hiểu việc gì muốn hỏi thì cứ gặp Cụ Bảng nhãn Lê Quý Đôn, nhà Bách khoa toàn thư của đất Việt. Do đó nên mỗi khi Cụ đi đâu đều có lính vác biển hiệu đi trước tiền hô hậu ủng.


Cụ Lê Quý Đôn ban đầu vốn không tin tử vi của Trần Đoàn, sau khi đi sứ Trung Quốc, cụ được các học giả bên ấy tặng bộ sách tử vi của Trần Đoàn và khi đã trên 50 tuổi thì ông mới tập trung công sức và trí tuệ để nghiên cứu nó. Sau đây là bài tựa cuốn “Thần Khê định số” của cụ:


 “Tuổi đời nay đã ngoại ngũ tuần
Mới tường số mạng chuyển vần nghiệm thay
Nhớ thuở nhỏ tài hay, học giỏi
Sách Thánh hiền theo đuổi công danh
Rừng Nho bể học ai bằng
Thông minh đáng bậc tài năng hơn đời
Nghe Khổng Tử than trời cầu thọ
Để san xong dịch số huyền vi
Ta cười “Khổng Tử ngu si”
Khôn ngoan tất thắng mà khờ thì thua
Môn tướng số là đồ mê tín
Đoán ba hoa, bàn chuyện vu vơ
Các điều di bại còn kia
Kẻ thì bỏ vợ, người thì gia vong
Nào Trần Đoàn – Tử Bình – Bát Tự
Đọc càng nhiều trí lự hoang mang
Cho nên ở thuở thiếu niên
Ta không tin tưởng ở môn học này
Giàu sang đều do tay mình tạo
Nào ai cho mà bảo tại trời
Chẳng qua mê muội đó thôi
Tài hèn, ngu muội bảo trời không cho
Học lười, dốt nên thi chẳng đậu
Buôn vụng suy, giàu có làm sao
Thế nhân tin tưởng bảo sao
Đem câu số mạng thay vào bình phong
*
Nay xét lại trong vòng quá khứ
Bạn đồng liêu kẻ dở người hay
Giàu nghèo, thọ yểu lạ thay
Khó đem hoàn cảnh giãi bày cho thông
Sức Hạng Võ sao không hưởng thọ
Lại sớm về, bởi gió nhập xâm
Giàu như Vương Khải – Thạch Sùng
Chỉ trong khoảnh khắc, tay không than trời
* *
Vấn tấm lòng những u hoài
Bách khoa – chư tử đương thời ai hơn
Chữ “Vô tri vấn bảng Đôn”
Nay coi lại số, tủi hờn mới vơi
Thấy xương – khúc ở nơi hảm địa
Và quan cung khôi ngộ kình – hình
Vướng câu “Lạc hảm văn tinh”
Mới tường số mạng, muôn phần đa đoan
Tuổi cao rồi liệu toan dịch số
Và đem câu “Luận cổ suy kim”
Trần Đoàn đẩu số khảo xem
Qua bao kinh nghiệm viết nên sách này./.

Bài thơ trên của cụ Lê Quý Đôn muốn để lại cho đời sau những điều tâm sự của ông khi bàn về tử vi mà chính ông thuở thiếu thời không bao giờ tin vào nó. Thế rồi trên 50 tuổi thì ông mới vỡ lẽ ra rằng cuộc đời có số mệnh thật và cái số mệnh ấy thật là muôn phần đa đoan. Đa đoan là phức tạp, rắc rối và cực kỳ khó hiểu. Thế rồi bộ Thần Khê định số của ông ra đời để làm sáng tỏ tất cả những gì của cuộc đời mà mọi người đều muốn biết.Thần Khê định số của cụ Lê Quý Đôn là sự kết hợp hài hòa giữa các bộ sao chính tinh của tử vi Trần Đoàn và các nét hình tướng bên ngoài, sắc diện bề ngoài của người có số. Qua thực tiễn, Cụ Lê Quý Đôn đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm thực tế và đã viết nên những bài phú của mình về môn khoa học huyền bí này./.


Quang Đạo: Chủ nhiệm Câu lạc bộ Dịch học Lý số Nghệ An
ĐT: 0983225079
Mail: lequang306@gmail.com
Nhận xem số Tử vi, xem Quẻ dịch, xem ngày và tư vấn Phong thuỷ.

Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

Những câu đoán bát tự thường dùng



Những câu đoán bát tự thường dùng (sưu tầm).

Sức khỏe

Tỷ kiên nhiều,cả đời ít ốm đau.
Nhật chủ cao cường, bình sinh ít bệnh.
Trụ có Thiên đức Nguyệt đức, cả đời ít bệnh.
Kim yếu gặp hỏa vượng, bệnh về đường huyết là chắc chắn.
Kim chủ về phổi, bị hỏa xung khắc, tửu sắc thành bệnh.
Thổ hư mộc vượng, nhất định tỳ vị bị tổn thương.
Mộc bị kim khắc, đau gân cốt, đau sườn, đau lưng.
Hỏa bị thủy khắc, mắt mờ.
Sinh mùa đông, mạng không có hỏa, chi dưới bị hàn lạnh.
Kiêu thần nhiều, thân lại nhược, phần nhiều bị bệnh phổi.
Hỏa thổ làm khô hết Quí thủy, bệnh về mắt.
Bính Đinh hỏa khắc hại Canh kim, bệnh đại tràng.
Ấn là hỏa thổ, nhiệt làm sinh đờm, tháo làm mình mẩy bị ngứa.
Kim thủy khô, thận hư.
Thương quan là kim thủy, hàn quá sẽ ho gió.
Thủy mộc sinh lẫn nhau, tỳ vị thương tổn .
Nhật thời Quan Sát tạp loạn, tật bệnh giao gia.
Kiêu đoạt Thực nên có bệnh.
Kim thần gặp thủy, vừa nghèo vừa bênh tật.
Nhật tọa Kiêu, hoặc Kiêu nhiều, bệnh do ăn uống mà gây ra.
Nhâm Quí gặp thổ vượng, chi dưới hư hao.
Kim gặp vượng thủy, bệnh về gân cốt.
Hợi Tý gặp Tỵ Ngọ, bệnh mắt.
Nhật yếu, Thực Thương nhiều, hay bị váng đầu.
Giáp mộc gặp hỏa nhiều, hay bị bệnh về thần kinh.
Trong trụ nhiều Hợi Tý, bệnh ở tiểu tràng, bụng dưới.
Tứ trụ hỏa nhiều, hồi còn thanh thiếu niên mặt nổi mụn nhọt.
Nữ phạm Thương quan, có bệnh khi sanh nở.
Mạng phụ nữ có Thiên đức Nguyệt đức, sanh sản không bệnh.
Nữ phạm Mão Dậu xung, chủ về trụy thai, khắc con.
Thương quan bị chế phục thái quá, đề phòng mắt đau, chân đau.
Dương nhẫn trùng trùng ba bốn chỗ, đề phòng đui điếc.
Thương quan trùng trùng, đề phòng đau ở eo, chân, xương.
Hình nhiều thế nào cũng bị thương tật.
Một Sát, ba Tài, hai hỏa chủ về bệnh mắt (Kỷ nhật).

Hỏa quá nhược hoặc tử tuyệt, dễ bị bệnh tim, bệnh bại huyết, viêm khớp, hôi chân, đau mắt. Tuổi còn trẻ thì dạ dày không tốt.
Mộc quá nhược hoặc tử tuyệt, phần nhiều bị váng đầu, hoa mắt, khí huyết không điều hòa, tóc thưa và mềm, có hiện tượng đau thần kinh, nếu nghiêm trọng sẽ đau gan, mật, tổn thương đùi và bàn chân.
Kim quá nhược hoặc tử tuyệt, chú ý khí hư, ho, da khô, đau khớp, lòi dom , đi tiêu ra máu, hô hấp không thông suốt, dễ cảm mạo, nếu nặng thì có thể bị bệnh phổi.
Thổ quá nhược hoặc tử tuyệt, có lúc da mặt bị vàng, kém ăn, chân tay uể oải , thích nằm ham ngủ, suy nghĩ vẩn vơ, không thích động tác, hay bị phù thũng, hôi chân, hôi miệng, bệnh về răng miệng, nếu nặng hơn một chút thì bệnh về hệ thống tiêu hóa, bệnh về da.
Thủy quá nhược hoặc tử tuyệt, dễ viêm thận, não xuất huyết, cận thị, bệnh ở hệ thống niếu đạo.
Mộc hỏa tương sinh mà lại quá vượng, thường cảm thấy tỳ vị căng đầy, sức ăn vẫn bình thường nhưng hễ ăn vô liền thấy no hoặc bị đè ép, ợ hơi, buồn nôn.
Kim thủy tương sinh mà quá vượng nên chú ý khí trệ, hen, ho , nghẹt mũi, hơi cảm thấy bồn chồn lo lắng, cảm thấy hiện tượng ngực dưới như bị thương, thở gấp, miệng khô khát.
Thủy mộc tương sinh mà quá vượng, nên chú ý tỳ vị hư, buồn nôn, hôi miệng, ợ hơi, kém ăn, thân thể suy nhược, mạch trầm yếu, phần bụng mềm yếu vô lực, mặt thiếu huyết sắc .
Thổ kim tương sinh mà quá vượng, hay khí hư, thường đầy bụng, bí đại tiện, khát nước.
Nguyệt lệnh tài tinh làm dụng thần, thời gặp Dương nhẫn, về già phát mệt mỏi, khốn khổ vì con cái .

Nghề nghiệp
Thực Thương phát tiết, hợp với những nghề văn chương, thư họa, giảng dạy, nghệ thuật.
Sát Ấn tương sinh, hợp theo nghề quân sự hoặc bác sĩ ngoại khoa, hoặc nhân viên cao cấp của xí nghiệp.
Quan Ấn rõ ràng, nên học chính trị hay pháp luật.
Tài Quan phù trợ lẫn nhau, nên học chính trị, pháp luật hoặc tài chính.
Thực Thương sinh Tài, nên học thương nghiệp, tiền tệ, tài chính, mậu dịch hoặc ngành nghề kinh doanh mang tính kỹ thuật.
Thân Tài lưỡng đình (mạnh bằng nhau), hợp thương nghiệp, mậu dịch.
Thương Quan Thương tận, hợp nghề võ, như quân sự, cảnh sát.
Sát Ấn tương sinh, hợp nghề võ, như quân sự, cảnh sát.
Thân nhược không có trợ giúp, tốt nhất đừng nên kinh doanh một mình.
Thân vượng không nương tựa, tốt nhất đừng nên kinh doanh một mình.
Ngũ hành cần thủy, hợp ngành nghề lưu động hoặc chức vụ ngoại giao.
Mạng có Dịch Mã, hợp ngành nghề lưu động hoặc chức vụ ngoại giao.
Ngũ hành quá khô, công tác trồi sụt biến động luôn luôn.
Bát tự bệnh nặng thuốc nhẹ(dụng thần yếu), làm việc luôn tự bỏ công bỏ sức ra mà kết quả không lý tưởng mấy.
Bát tự bệnh có thuốc chữa (dụng thần vừa đủ), làm ít mà kết quả nhiều, không tốn sức.
Tỷ Kiếp trùng điệp, không hợp làm quan hoặc nghề công thương nghiệp, nên theo nghề y, kế toán, thầy giáo hoặc ngành nghề tự do là hợp nhất.
Nhật chủ quá yếu, hợp mấy nghề kỹ xảo, nhất nghệ tinh nhất thân vinh.
Chính Quan là mộc, nhân cách thanh liêm chính trực mà nhân từ, và cũng biết khống chế bản thân, biết kết hợp với xã hội, đoàn thể, nên rất thích hợp mấy nghề quản lý như hành chính, tư pháp, CEO.
Chính Quan là hỏa, cá tính rất mạnh, cho nên thường “ Lộ thấy bất bình, bạt đao tương trợ”, có uy, cũng hợp nghề văn hóa, giáo dục, nghệ thuật.
Chính Quan là thổ, cá tính ôn hòa, đồng thời cũng là người chính trực, trên các mặt đều biểu hiện ngay thẳng và khoan dung, tuy nhiên cũng thích hợp nhiều ngành, xử lý sự việc quyết đoán, nghĩa khí, đồng thời khái niệm kinh tế cũng rất chính xác, thích hợp với nghề tài chính, kinh tế, tiền tệ, quân đội cảnh sát.
Chính Quan là thủy, cá tính xuề xòa nhưng cũng rất lý tính, có mưu trí, thích hợp phát triển trong ngành công thương , thủy sản…
Thân cường Sát vượng đới Nhẫn, phần nhiều là nghề võ, xây dựng, hoặc bác sĩ ngoại khoa.
Hoa Cái hoặc Văn Xương hoặc Không Vong đồng trụ với Chính Ấn, người này có thể thành công trong giới học thuật, văn hóa, tôn giáo.
Trụ có Thiên Ấn (Kiêu), rất nhạy cảm với sự việc, cho nên hợp mấy nghề điều tra, trinh sát, tình báo, và cũng hợp những nghề không chính thống như nghệ nhân, mở quán, minh tinh, hoặc những nghề làm ăn dựa vào nhân duyên.
Tài chế Thiên Ấn, sẽ thành công trong ngành nghề thực nghiệp (sản xuất).
Chính Quan Thiên Ấn tương sinh, nghề gì có làm công ăn lương là hợp.
Tỷ Kiên và Kiếp Tài là hỷ dụng, hợp ngành nghề kinh doanh hùn hạp, công ty, cơ cấu có chia cổ phần, cũng có thể tay trắng làm nên.
Mạng có Kiếp Tài Dương Nhẫn, Thực Thương yếu hơn Quan Sát, nên ráng theo nghề lao động trí óc, hoặc chuyên một môn có tính kỹ thuật đặc thù.
Mạng có Kiếp Tài Dương Nhẫn, Thực Thương yếu hơn Quan Sát, nên theo nghề “phá hoại” như quân nhân, tình báo, cảnh sát, công trình phá nổ, phát minh…
Thực Thần cách có cả Chính Quan và Thất Sát, hợp theo nghề không sản xuất, như y bốc tinh tướng, tam giáo cửu lưu…
Thực Thần và Chính Ấn đồng trụ, mà Ấn là dụng thần, hợp nghề viết lách.
Thân vượng, Tỷ Kiên mạnh, tránh kinh doanh hoặc đầu cơ mạo hiểm, tốt nhất làm công chức hoặc làm ăn ổn định.
Thực Thần là dụng thần, thích ca hát, biểu diễn.
Thực Thần sinh Tài, lợi kinh doanh dược phẩm, ăn uống, bánh trái, thức ăn gia súc, chăn nuôi gia cầm…
Thực Thần cách, mà Kiếp Tài Thiên Tài mạnh hơn Tỷ Kiên Chính Tài, hợp phát triển mấy nghề ca hát, âm nhạc, mỹ thuật, múa, thiết kế thời trang, thẩm mỹ…
Nhật chi tọa Thương Quan hoặc thiên can thấu Thiên Quan, hợp nghề kỹ thuật, sản xuất, học giả.
Kim thủy Thương Quan, giỏi hùng biện, hợp những nghề ăn nói, MC, tuyên truyền…
Thân vượng Thương Quan nhiều, lại không có chế hóa, mạng đi tu, nghệ thuật gia…
Thân vượng Tài nhẹ, hợp nghề kỹ thuật.
Có Tài tinh và Dịch Mã, hợp giao thông vận tải, buôn bán, thông tin, truyền thông…
Thân vượng Thiên Tài vượng, không bị Không phá, mạng cự phú.
Thân vượng Thiên Tài vượng, có Không phá, nhà kinh doanh nhỏ, hoặc nhà kinh doanh giỏi giao tế.
Thiên Tài gặp Thương Quan, theo nghề có tính thách thức, mạo hiểm, đầu cơ như mậu dịch, gia công, nghiệp vụ, marketing…
Thiên Tài gặp Chính Quan, nên theo nghề công vụ viên, thư ký, hành chính…
Tài đa thân yếu, Tỷ Kiên làm dụng thần, hợp làm ăn hùn hạp với bạn bè.
Tài đa thân yếu, Kiếp Tài làm dụng thần, đừng nên hợp tác với bạn bè, mà phải kinh doanh một mình.
Nữ mạng có Đào Hoa, Quí Nhân, Hoa Cái, phần nhiều là diễn viên hoặc là ca sĩ nổi tiếng.
Kiếp Sát gặp Chính Quan, mà Chính Quan là hỷ dụng thần, người này dáng vẻ uy nghiêm, ai gặp cũng nể, hợp nghề quân sự hay quan chức có tính chất phán đoán quả quyết.
Mạng có Không vong và Đào Hoa, phần nhiều là nghệ nhân trong dân gian.
Căn cứ vào ngũ hành để chọn nghề thích hợp:
Tứ trụ hỷ (cần) kim, nên theo nghề nghiệp có liên quan tới kim, như kinh doanh dụng cụ kim loại, máy móc của nhà máy, xe hơi, giao thông, tiền tệ, electronics, công trình, khai khoáng. Sự nghiệp phát triển lợi hướng Trung Tây, không lợi Đông Nam.
Tứ trụ hỷ thủy, nên theo nghề nghiệp có liên quan tới thủy, như chạy việc bên ngoài, có tính lưu động, làm đá, trữ lạnh, hàng hải, du lịch, nhà thể thao, ký giả, hotel…Lợi hướng Tây Bắc, bất lợi Trung Nam.
Tứ trụ hỷ mộc, nên theo nghề nghiệp có liên quan tới mộc, như lâm nghiệp, trồng trọt, kinh doanh đồ gỗ, đồ nội thất gỗ, văn nghệ, văn học, thầy giáo, nhà văn, giáo dục, hiệu sách, nhà xuất bản,công vụ, tư pháp, y liệu. Lợi Đông Bắc, không lợi Tây Nam.
Tứ trụ hỷ hỏa, nên theo nghề nghiệp có liên quan tới hỏa, như nhà máy, lò gạch, phát sáng, dầu, xi măng, ăn uống nóng, thực phẩm, quân giới, bách hóa, phát điện, diễn thuyết, chính trị, tôn giáo. Lợi Đông Nam, không lợi Tây Bắc.
Tứ trụ hỷ thổ, nên theo nghề nghiệp có liên quan tới thổ, như cố định thực nghiệp, khoáng mỏ, nông nghiệp thu hoạch, người trung giới, giới thiệu, luật sư, quan tòa, quản lý, cố vấn, thư ký, nhà đất bất động sản, kiến trúc, thiết kế… Lợi Trung Nam, bất lợi Đông Bắc.

Quan vận công danh
Quan ở vượng địa, rạng rỡ tổ tông.
Sát cư thái tuế, dù đang bình an cũng nên đề phòng.
Ấn thụ thông căn, gặp Quan liền quí.
Thìn Tuất Sửu Mùi tứ khố toàn mà thuận hành, mạng đế vương.
Tý Ngọ Mão Dậu tứ xung đắc thời, mạng đế vương (đắc thời tức nhật can vượng ở nguyệt lệnh).
Thất Sát có chế ngự, Dương Nhẫn không bị xung, cực quí, tướng của các tướng, chủ có quyền sinh sát (Thực Thần chế Sát, thân không được quá vượng).
Bính hợp Tân sinh, là tướng nắm giữ uy quyền (Nhật can Bính gặp tháng Tân Dậu hoặc nhật can Tân gặp tháng Bính Thân).
Sát Nhẫn rõ mà mạnh bằng nhau, chức tước tới Vương hầu (Thân phải vượng).
Kiếp Tài Dương Nhẫn, có Quan Sát, làm quan sang quí (Thân không được quá vượng hoặc quá nhược).
Mạng gặp tam kỳ, có tam hợp nhập cục, quốc gia lương thần.
Nhật thời củng lộc, là mạng quân tử rất quí, dễ được tước vị cao.
Củng quí mà thuần túy, mạng quí cấp tướng.
Sát vượng Ấn nhẹ, làm quan nhất định là quan võ.
Niên thời Quí nhân giao nhau, không có tử tuyệt xung phá không vong, nếu hỷ dụng thần phối hợp thích nghi, nhất định quí đến cực phẩm.
Thương Quan có Nhẫn, có tài làm tướng.
Thiên Quan có chế phục lại được sinh, uy trấn biên cương (Có Thực chế, có Tài sinh).
Trong trụ kim thủy tương sinh, quan to trong triều ( Thủy sinh tháng kim, không có thổ tạp lẫn).
Quan Ấn ở trụ năm và tháng, làm quan hay lui tới cung điện.
Có lộc và lộc đó hợp, làm quan cao ( Hợp sinh hoặc hợp quí).
Kim Thần đới Ấn, tham mưu trong nội các.
Tháng đới Quan Ấn, khảng khái thông minh, kiến thức cao, có công phò tá.
Tướng tinh cùng chỗ với Vong Thần, bậc đống lương của quốc gia.
Trên trụ tháng có Thất Sát, trên trụ giờ có Thực Thần chế ngự, nhật nguyên mạnh, tất là tướng của các tướng.
Trong trụ Ấn nhiều Tài lộ, rất muộn mới ra làm quan (Không có Sát).
Hoa Cái và Ấn tinh củng hội, là bậc lương thần như Quản Trọng.
Tài sinh Thất Sát, quyền uy trên cả vạn người, có thêm Ấn tương phù, làm quan cao cực phẩm.
Phúc Đức gặp Tài mà Quan ẩn, chức vụ rất cao ( Thiên Nguyệt Đức, Tài thấu Quan tàng).
Thương Quan thấu, Chính Quan ẩn, gặp Sát Ấn Tài, vị trọng quyền cao.
Thực Thần đới Nhẫn tọa Quan, làm quan Nhất phẩm (Nhật tọa Quan).
Tứ trụ Sát vượng, thân vượng là quan thanh liêm ( Trong trụ không có chút Quan tinh nào).
Có Quan có Ấn không bị phá, quan trong triều (Không có xung phá, Không vong).
Trong trụ có Dương Nhẫn, tam hình, tự hình, Khôi Canh, phát ở nơi biên giới (Thân phải nhược).
Nhật thời có Mã, làm quan thanh quí ( Ngày lộc giờ Mã, hoặc giờ lộc ngày mã, hoặc ngày giờ đều là Mã tinh).
Quan Sát rơi vào Không vong, nhậm chức hờ trong xã hội.
Canh Tân cục toàn Tỵ Dậu Sửu, vị trọng quyền cao.
Thương Quan gặp quí, quan cao ( Thương Quan thương tận).
Nhuận hạ cách, quan cấp dưỡng.
Giá sắc cách, quan cấp dưỡng.
Mã đầu đới kiếm trấn thủ biên cương.
Lộc Mã đồng vị, quan cao hiển hách.
Ấn lâm Thiên Ất, mấy đời làm quan.
Quan ở cung giờ, mạng cường, tuổi về già được phong quan.
Mã ở trụ giờ, tuổi già được tấn phong chức tước (Nguyệt lệnh Chính Tài cách, không xung khắc, mạng vượng).
Tam hình gặp quí, chấp pháp có quyền.
Thuần dương địa bao âm, binh quyền hiển hách.
Mã gặp đế vượng, trụ không có hình thương khắc hại, thăng quan tiến chức.
Quan tinh đới Đào hoa, rất quí.
Khôi Canh đới Sát phùng xung chiến, tính cao cường mà nắm quyền sinh sát.
Sát có Thực mà không có Kiêu thần, nếu không nắm quyền sinh sát cũng nắm chức quân đội, hình cảnh.
Tài trước, sau là Ấn, mỗi năm thăng quan một lần ( Trụ năm Tài trụ tháng Ấn hoặc tháng Tài giờ Ấn).
Lộc nhiều có Ấn phù trợ, chức vị cao hiển hách.
Quan Ấn không có Nhẫn không có Sát, quan vị thanh cao.
Nhật là Khôi Canh dễ nắm đại quyền.
Hoa Cái lâm vượng tướng, quyền cao chức trọng.
Thất Sát có chế ngự, hưởng lộc phong hậu.
Tứ trụ thuần dương, Thiên Ấn nhiều, ngôi vị cao ( Không có Thực Thần).
Sát Ấn đồng vị, ăn to nói lớn, gặp vận tốt sẽ có chức vị cao trong quân đội.
Thương Quan gặp Tài, quan cao mà tiền tài cũng khá.
Thực Thần sinh vượng đới Lộc Mã, văn thì nhậm chức hai tỉnh, võ thì đóng quân hai tỉnh.
Thực Thần đới hợp, làm quan nắm quyền nắm con dấu (hợp Ấn).
Dương Nhẫn gặp Ấn, người có lắm mưu kế.
Chi là Dương Nhẫn, can là Quan , trụ tháng và trụ giờ mà có thì rất hiển hách.
Vào ra nơi quyền quí, trên đầu quí nhân phải là Quan tinh ( Trụ tháng có Thiên Ất quí nhân).
Kim thần đới Sát, nhất định là quan quí.
Tháng là Sát Ấn, giờ là Thương Quan, làm quan rất được tín nhiệm.
Tài Quan đều đẹp, thấu Tài Ấn, làm quan chủ chốt cấp tỉnh ( Ngày Quí Tỵ tọa hướng tháng Tỵ, ngày Nhâm Ngọ tọa hướng tháng Ngọ, can thấu Tài Ấn).
Năm Chính Ấn, tháng Chính Quan, nhậm chức giáo dục.
Thương Quan đới Ấn, nhậm chức chỉnh đốn kỷ cương trong triều .
Quan gặp Vong Thần, Kiếp Sát thêm Thất Sát nữa thì là võ tướng.
Dần Thân Tỵ Hợi toàn, vị trọng quyền cao.
Trụ không Tài cũng không có Quan, khó mà có chức tước.
Trong trụ Thương Quan gặp Quan, không có Tài thì không có chức vị.
Có Quan mà không có Ấn, quan giả.
Quan tinh sợ hình xung hại, không lợi làm quan.
Quan tinh không nên thấy cả hai, sợ rằng làm quan không lâu.
Quan Sát hỗn tạp, không quí hiển được.
Tài tinh yếu, làm quan không lâu.
Trụ năm Thiên Quan, sẽ một ngày khắc hại.
Quan ngồi trên đầu Dương Nhẫn, thế nào cũng bị hình thương ( Như nhật can Giáp sinh tháng Tân Mão).
Người sinh ngày Canh Tuất, Canh Thìn, có Quan Sát đến phá, bất lợi làm quan.
Quan nhược, Tài nhược, không nên làm quan.
Ấn thụ toàn vẹn sinh thân, cửa nhà vẻ vang ( Ấn lợi vượng địa, không có Tài khắc Ấn).
Tài vượng sinh Quan, khởi nghiệp từ thưở thiếu niên ( Tiền đề là thân phải vượng).
Tài Quan Ấn đều toàn, thi đậu cao, dễ nổi danh.
Hỏa minh mộc tú, nhật chủ cường, có tố chất làm Trạng nguyên ( Xuân mộc gặp hỏa).
Ngày Quí, giờ Dần hình hợp, đi thi đậu tốp đầu bảng ( Gặp Tỵ).
Tháng Ấn sinh cho ngày, không có Tài tinh, văn chương giỏi giang, đi thi là đậu.
Thiên Nguyệt Đức lâm Tướng tinh, đậu cao.
Thương Quan bội Ấn mà Tài là dụng thần, nghề văn nổi tiếng .
Mã tinh hội ở Học Đường, có tài học.
Sinh phùng Hoa Cái, văn chương nghệ thuật.
Hỏa thịnh, văn chương sáng láng.
Kim thủy Thương Quan đắc lệnh, văn chương đầu bảng (Ngày kim sinh tháng thủy).
Can thấu Tài Ấn đều đẹp, trung niên thân đáo phụng hoàng đài ( Ấn phải có căn).
Trụ giờ Thực Thần cưỡi Lộc Mã, có danh tiếng dễ như trở bàn tay.
Tài Quan Thực, thông minh tú khí, văn tài xuất chúng.
Văn khố Tuất thổ bị xung mở, văn chương phát ào ạt.
Chính Ấn qui Lộc, quan ở Viện Hàn lâm nắm quyền thi cử.
Nhật cường Ấn vượng gặp Quan, đọc sách hơn vạn quyển.
Niên nhật nguyệt thời trong một Tuần, có tên trong bảng vàng.
Trụ năm có Ấn thụ phúc vô cùng, thụ ơn tập ấm lập công danh.
Đảo xung Lộc Mã, tuổi trẻ thành danh ( Ngày Bính Ngọ nhiều Ngọ, không có Mùi; hoặc Ngày Đinh Tỵ nhiều Tỵ, không Thân Thìn, không Quan Sát).
Qui Lộc gặp Tài gặp Văn Xương, nổi danh nghệ thuật.
Qui nhân Lộc Mã ở trụ giờ, rạng rỡ tổ tông.
Đinh Nhâm hóa mộc ở giờ Dần, văn chương cái thế thiên hạ ( Ngày Đinh giờ Nhâm Dần).
Ất mộc gặp giờ Bính Tý, Quan không bị xung hại rất thanh kỳ, dương danh bốn biển ( Không có xung hình hợp).
Tỷ Kiếp trùng trùng, tất có tranh đoạt, phải tranh mới thắng.
Thân suy Ấn nhược, đừng tới trường thi.
Thiên Quan bị chế phục thái quá, là nhà Nho nghèo.
Mệnh gặp Ất Bính Đinh, đới Không vong sinh vượng, ẩn sĩ trong núi.
Hình xung Dương Nhẫn, không thích học.
Tài nhiều Ấn ít thân nhược, có học vấn đi nữa cũng nghèo.
Có Sát không có Ấn thiếu văn tài.
Có Ấn không có Sát thiếu uy phong.
Ấn bị phá Tài bị thương, đừng ham tìm kiếm công danh.
Thiên Ấn nhiều, học nhiều thành tựu ít.
Nhật yếu Thực Thương lại nhiều, sợ học.
Nhật trụ Tài nhiều Tài vượng, không phải là người có học.
Thương Quan đới Ấn, có đảm thức thao lược, thành công vượt quá sức tưởng tượng của mọi người.
Thương Quan thân vượng Tài vượng, có tên bảng vàng (Chỉ Thương Quan thương tận).
Thực đàng trước Sát đàng sau, người công danh hiển đạt ( Thực tại năm tháng, Sát tại ngày giờ).
Thương Quan Dương Nhẫn đới Thất Sát, bảng vàng đề tên.
Giáp mộc Thương Quan gặp Dần Ngọ Tuất, hỏa minh mộc tú có thanh danh.
Sát tàng Quan lộ, ẩn ác dương danh, ai mà gặp phải, danh chấn hương bang.
Trụ tháng Sát cùng Nhẫn, nổi danh.
Tàng Ấn lộ Tài tự thân vượng, công danh hiển vinh.
Quan sinh năm, lưu danh thiên cổ.
Sát sinh năm, lưu danh thiên cổ.
Tỷ Kiên gặp Lộc, anh em danh cao.
Thời tọa Chính Quan, có tuổi mới thành danh.
Năm gặp Quan quí, tài cao, tuổi trẻ thành danh ( Thân vượng).
Trụ giờ có một Thiên Quan, dương danh vạn dặm.
Thương Quan không có chút Tài tinh, tuy thông minh cơ xảo cũng chỉ hư danh hư lợi.

Cha mẹ

Trụ năm hoặc trụ tháng gặp quí nhân, cha mẹ tướng mạo đẹp đẽ, thanh nhã.
Trụ năm hoặc Chính Ấn tọa Dịch Mã, ông cha hoặc cha mẹ hay đi buôn bán xa.
Trụ năm gặp Ấn, Học đường Từ quán, cha mẹ hiền lành, ông bà cha mẹ dòng dõi thư hương.
Trụ năm gặp Thiên đức Nguyệt đức, cha mẹ tâm địa hiền lành, có phước, hay làm điều thiện tích công đức.
Niên trụ Thực Thần mà không có Kiêu, cha mẹ to béo khỏe mạnh, tính cách thành thực.
Trụ năm gặp Chính Ấn Quan tinh, cha mẹ văn chương giỏi giang, làm quan hiển hách.
Chi năm Quan tinh gặp Tướng tinh, cha mẹ quí hiển, trung hậu .
Chi năm Tài tinh đắc lộc đắc quí, cha mẹ vinh hoa phú quí.
Chi năm là lộc, mà chi năm là quí nhân của can năm, gọi là đắc quí đắc lộc, cha mẹ là phú hào.
Can năm tọa Thiên đức hoặc Nguyệt đức là cha mẹ hiền từ lương thiện.
Chi năm hoặc Chính Ấn gặp Đào hoa, mẹ đẹp lại thông tuệ.
Thiên Tài qui lộc, cha rất vẻ vang.
Ngày có Tài, giờ có Kiếp, cha hưng vượng, con sa sút.
Trong trụ Thiên Tài gặp vượng địa, cha sống lâu.
Ấn gặp Trường sinh, mẹ sống lâu.
Chi ngày sinh chi năm, vợ có hiếu với mẹ chồng, hoặc quan hệ mẹ chồng con dâu rất tốt.
Chi năm hoặc Chính Ấn đóng trên Hoa cái, cha mẹ thông tuệ mà tính cô(quả).
Thìn Tuất Sửu Mùi toàn, ruột thịt chia lìa, thiếu cha hoặc mẹ.
Lệnh tháng bị xung, tổn cha mẹ hoặc người thân hoặc ly dị ( Xung gần).
Đề cương khắc năm, cha mẹ không toàn ( Ngũ hành của lệnh tháng khắc nạp âm của năm, hoặc chi tháng khắc chi năm).
Thiên Tài gặp Không mà Ấn vượng, cha mất sớm.
Tỷ Kiếp trùng điệp, cha mẹ khó thọ.
Phụ đóng ở mộ khố, cha mất trước.
Chi năm Thất Sát đới Dương Nhẫn, cha mẹ dữ, không có tiền và phước đức.
Tháng có Dương Nhẫn, khắc cha.
Tháng sinh can ngày, không nên gặp Tài, nếu gặp khắc mẹ hoặc mẹ có bệnh.
Ấn bị xung khắc, mẹ không chết cũng xa lìa.
Trụ có Kiêu và Thực gặp nhau, khắc mẹ.
Ngày giờ đều là Thực Thần, khắc mẹ.
Tài Ấn đều bị tổn thương, khắc mẹ, vợ mất.
Niên chi Ấn lâm Cô thần Quả tú, cha mẹ cô độc, không dựa thân thích.
Năm có Chính Quan bị Thương Quan xung khắc là cha mẹ nhiều bệnh va không thọ ( Thương Quan vượng Quan nhược, hoặc Thương Quan ở trụ tháng khắc thì mới nặng).
Ấn nhiều Quan Sát nhiều, cha mẹ không giúp đỡ gì được.
Chi ngày xung chi năm, mẹ không chết cũng xa lìa.
Trụ gặp Thiên Tài hai lần, mẹ lấy hai đời chồng,
Trụ hai lần gặp Ấn, cha tất có hai vợ.
Chính Ấn Thiên Ấn gặp nhau, nhất định có mẹ kế.
Quan vượng Ấn suy, cha mẹ anh em phân tán.
Tài nhiều Ấn nhược, cha mẹ nhiều bệnh.
Thực ở chi năm bị Kiêu vượng khắc, cha mẹ nhiều bệnh.


Con cái
Quan tinh sinh vượng, giờ lại có Trường sinh, con cái thông minh xinh đẹp.
Quan tinh đóng ở Đế vượng, con cái sẽ vinh hiển.
Cung thê hiển lộ, con cái nhiều.
Thương Quan gặp Tài, có con.
Thất Sát có chế ngự, nhiều con.
Tài Quan sinh cho trụ giờ mà lại sinh vượng, có đứa con giúp nước lợi nhà.
Gặp Chính Quan nhiều là sinh con gái nhiều, ít con trai.
Một Thực Thần thấu can là dụng thần, vừa có con lại vừa thọ.
Quan tinh đắc lộc ở ngày giờ, sinh con học giỏi đậu cao.
Thất Sát có chế hóa là uy quyền, có con rất tài giỏi.
Giờ có quí tinh của ngày, về già còn sinh quí tử.
Thực Thần làm dụng thần, sinh con cái hiền lành hiếu thảo.
Thất Sát ở trụ giờ, có Thực Thương chế ngự, con cái quí hiển.
Ấn đóng ở cung vị tử tức, con cái hiếu thuận, có thể thành gia lập nghiệp.
Nữ mạng gặp Thiên đức Nguyệt đức, con cái đậu cao.
Trụ giờ Thương Quan Mã tinh, con cái sinh ở nơi xa hoặc đi xa nhà.
Trụ giờ tọa Tài tinh , con cái thành gia lập nghiệp, hiếu thuận giàu có.
Trụ giờ tọa Thực Thần, con cái xinh đẹp mà mập mạp.
Chi giờ đóng Chính Quan, con cái tướng mạo đôn hậu, tính tình hiền hòa, trung thực.
Chi giờ hoặc Thực Thương đóng Hoa cái, con cái thông minh nhưng tính cô, mà còn chủ sinh con gái không sinh con trai.
Chi giờ hoặc Thực Thương đóng Đào hoa, con cái phong lưu, ham tửu sắc.
Chi giờ hoặc Thực Thương đóng Dịch mã, là con gái sinh ở đất khách quê người hoặc đi xa.
Thực Thương có quí nhân, con cái thông tuệ phú quí.
Chi giờ hoặc Thực Thương đóng Thiên đức Nguyệt đức, con cái tâm địa hiền lành, hiếu thảo.
Chi giờ hoặc Thực Thương đóng Trường sinh, con cái nhiều mà sống lâu.
Giờ đóng Thiên Ấn mà lại là hỷ dụng, con cái thành tài.
Chi giờ đóng Thất Sát có chế ngự và là hỷ dụng, con cái nhiều và quí hiển.
Mạng hỏa sinh mùa hè, thân thể tráng kiện thông minh.
Mạng thổ sinh mùa hè, thân thể tráng kiện thông minh.
Mạng kim sinh mùa thu, thân thể tráng kiện thông minh.
Mạng thủy sinh mùa đông, thân thể tráng kiện thông minh.
Giờ có Thương Quan, con cái lì lợm.
Trong trụ Thực Thương nhiều, khó có con.
Ấn thụ Kiêu thần, khó có con.
Cung con gặp mộ, con không bệnh cũng có lao tù, hoặc có tật, khó nuôi.
Thiên Tài Thiên Quan Thiên Ấn là con vợ thứ, nếu không cũng là con thứ ba thứ tư.
Sát đới hình, khắc tử.
Mẹ rõ cha mờ, phần nhiều là sinh trộm ( Ấn nhiều Tài ẩn).
Mạng nữ phạm Thương Quan Thiên Ấn, táng tử hình phu.
Ngày giờ Thìn Tuất xung, con khó đậu cao.
Mạng nữ đóng Hoa cái gặp Không vong, cả đời không sinh nở.
Mạng con nít thân nhược Sát vượng trùng điệp, không chết cũng tàn tật.
Thực Thần trùng điệp, Kiêu thần quá vượng, không có sữa.
Nữ mạng Quan tinh ở tử tuyệt, lại tiết khí quá nhiều, khắc con hoặc không có con.
Thìn Tuất Sửu Mùi toàn, đã khắc chồng lại còn không sinh con.
Nữ mạng có Mộc dục, con trưởng tất yểu.
Trụ ngày gặp hình xung phá lại thêm Nhẫn, khắc con trưởng.
Quan hưu tù lại bị khắc, con yểu chiết.
Thương Quan quá vượng, nhận nuôi con của chị em.
Bốn chi đều có Thương Quan, khóc con.
Thực Thần phá dụng thần, con là đứa phá gia chi tử.
Ngày vượng, Thực Thương Quan Sát rơi vào Không vong, không có con.
Năm tháng Tài tinh khắc trụ giờ Ấn, coi chừng con bị chấn thương tàn tật.
Quan tinh ở trụ giờ yếu, có con khó nuôi.
Thực Thương gặp xung, bất lợi cho con cái.
Giờ gặp Thương Quan, có con không theo con đường học hành.
Giờ đóng Thiên Ấn, con cái tính tình không lương thiện.
Giờ đóng Kiếp Tài, con nhiều nhưng chỉ phá.
Chi giờ đóng Thất Sát không có Thực chế ngự, con cái tính thô bạo, không nghe dạy dỗ.
Giờ có Dương Nhẫn, con cái tính cọc, bất hiếu.
Giờ có hình hại bất lợi con, hoặc hay bệnh.
Giờ ở nơi tuyệt địa coi chừng không người nối dõi.
Toàn trụ Thất Sát không chế ngự, không con.
Ngày đóng Thiên Ấn, vợ thường sinh non.
Chi ngày giờ xung nhau, đến trung niên coi chừng con cái hoặc vợ gặp họa.
Kiêu Thực gặp nhau bất lợi con cái.
Gặp cả Kiêu lẫn Thương Quan, mà Kiêu mạnh hơn, khắc con.
Gặp cả Ấn lẫn Thực, mà Ấn mạnh hơn, khắc con.
Can giờ khắc can năm, sinh con trai không được suôn sẻ.
Can giờ khắc can ngày, con không nghe lời cha.
Kiêu mạnh, thương tổn con.
Mạng nam can giờ khắc can ngày, con đầu thường là trai.
Mạng nữ can giờ khắc can ngày, con đầu thường là gái.
Can giờ là Tỷ Kiếp, con đầu thường là gái.
Can ngày can giờ sinh lẫn nhau, con đầu thường là gái.

Quang Đạo: Chủ nhiệm Câu lạc bộ Dịch học Lý số Nghệ An
ĐT: 0983225079
Mail: lequang306@gmail.com
Nhận xem số Tử vi, xem Quẻ dịch, xem ngày và tư vấn Phong thuỷ.

Phụ tử tình thâm - Thập ân phụ mẫu



Phụ tử tình thâm
Dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh
Người đóng góp: Thu Hương

À… À… ời.... à..à ơi....
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ, kính cha
Lo tròn chữ hiếu mới là đạo ơ… ơ con

Phụ tử tình thâm
Công thầy, rồi nghĩa mẹ
Đừng tiếng tăm, nặng nhẹ
Đừng tiếng tăm, nặng lời
Đừng cả tiếng, dài hơi
Nói mẹ cha sao nên
Cãi mẹ thầy sao phải
Ơ...Ơ Đêm nằm nghĩ lại
Nhớ đến cội thung huyên
Công cù lao ai đền
Nghĩa sinh thành ngày trước
Khi lưng cơm, rồi bát nước
Ước phụ tử tình thâm
Thầy đói rách nợ nần
Mẹ cũng đói rách nợ nần
Cũng vì con thơ ấu
Dừ phụ tại trắc mậu
Rồi trắc tại vô thân
Con ở có thủy có chung
Đứa phụ từ tự hiếu
Mà đứa phụ từ tử hiếu
Dăm ba cành đào liễu
Sáu bảy quả nam nhi
Thầy chưa được nhờ chi
Mẹ cũng chưa được nhờ chi
Đền công ơn cho đáng
Công mẹ thầy cho đáng
Rồi mười ngày chín tháng
Mẹ cúc dục nên thai
Con nên một nên hai
Thầy ấp iu bồng bế
Mẹ ấp iu bồng bế
Con nên ba, nên bốn
Con tríu mẹ chưa rời
Đứa sáu, bảy ăn chơi
Con chín, mười khôn nầy
Mà đứa chín, mười khôn nậy
Ơ...Ơ
Dừ thầy chưa được cậy
Mẹ cũng chưa được nhờ
Dừ mẹ đang phải lo
Đứa manh khăn, tấm áo
Đứa mảnh quần, tấm yếm
Con mười lăm, mười bảy
Con ăn học dùi mài
Đứa mười chín, đôi mươi
Lo thất gia dựng hộ
Mà lo cửa nhà dựng hộ
Khi hoa cười, ngọc nở
Chốn đào liều sum vầy
Thầy mơ ước đêm ngày
Ước dâu hiền, thầy ước rể hiền
Ước dâu hiền, mẹ ước rể thảo
Ơ.. Ơ...
Thánh hiền là đạo
Rồi khuất bóng từ bi
Con có lỗi điều chi
Xin mẹ thầy xá quá
Con đừng ở cậy thượng, rồi áp hạ
Ở giát dạ khinh thường
Con đừng đứa ghét, đứa thương
Cũng nhất giai chi tử
Mà cũng gia bằng chi tử
Dừ trong sách có chữ
Con mới phải trông vào
Thầy một tuổi một cao
Mẹ một tuổi một già
Con đừng bấc chì mà nặng nhẹ
Chớ có bấc chì mà nặng nhẹ
Con ở gần thầy, mẹ
Phải xây đắp, vun trồng
Khi vợ dại thì có chồng
Phải vào ra thăm viếng
Phải đi về thăm viếng
Khi đồng quà, trữ bánh
Khi bún sốt, lòng tươi
Ta nâng giấc cho người
Kẻo mai rồi tạ thế
Mai sau rồi tạ thế
Ơ...Ơ…
Rồi một mai bách tuế
Ra cây úa, lá vàng
Lá rụng cội đại ngàn
Con tìm mô được nữa
Mà con muốn tìm mô được nữa
Khi cúng hương, cúng lửa
Khi vào bái, ra quỳ
Dừ đặt mâm lên thì
Nỏ thấy thầy, mẹ ăn chi
Chỉ thấy ruồi với ruồi
Chỉ thấy ruồi với kiến
Chiêm bao tưởng đến
Dù than vắn, thở dài
Thầy không đoái, không hoài
Mẹ cũng nỏ đoái, nỏ hoài
Thật là phụ từ tự hiếu…
Ai ơi...
Làm con cho trọn đạo
Nhắc người ghi lòng cho trọn đạo
À À ơi... À À ơi i i i ơi!

Mẫu tử tình thâm (Chế). Mẫu tử tình thâm chứ công thầy mà nghĩa mẹ,chớ tiếng tăm nặng lời nhân rộng tiếng cả hơi chớ cuộc đời cha sao nên bởi vì cha nhiều bạn ơ ơ ơ…một năm có 365 ngày biết bao nhiêu ngày là lễ trọng.chẳng han cái ngày thành lập đoàn 26 tháng 3 cha la cán bộ hoạt đọng phong trào nâng ly lên là phải hô hào uống cho đẹp đôi đố ngộ.ơ ơ ơ…Uống xong rồi thì cha ngủ mẹ đặt chậu nằm bên con dật chậu nằm bên cha vẫn nằm im lịm mẹ nhìn cha ứa lệ ơ ơ ơ .. một tháng có bao nhiêu ngày như thế ma có một chú mới xây nhà mời cha đên uống khánh thành tân gia cha xách dép ra đi mẹ chạy theo níu lại í í í í…Con ơi chú cha con là người hay ăn hay nhậu nồi lảu mới rinh ra cha mới gọi điện thoại vè nhà mẹ ăn trước đi nha con ăn trước đi nha chơ cơ quan cha đang bận họp í í í…. Cả tuần ni cha chưa có hột cơm mô vô trong bụng mà sáng thì bát cháo bồ câu trưa lồng lợn tiết canh chiều thịt chó í í í.. Cha con mới uống riệu xong thì đi bước ngắn bước cao nghe điện thoại réo oang oang cha lại xách dép ra đi mẹ nhìn theo mà ngao ngán í í í … nhà ta nghèo mưa gió mà dột dưới dột lên mà dột trên mà dột xuống mẹ dùn cha xích vô con đùn cha xich vô nơi mô khô thì mẹ nằm nơi mô ướt thì cha nằm cha dang say riệu biết chi mô ướt với khô nằm mô mà nỏ được í iiiii….Mới đó đã trăm ngày thịt ga nấu với kiệu cơm nếp với độ xeng thịt mở với dưa hành chơ mời anh về hưởng thụ.í í í í .sinh thời anh bạo nhởi đến con cái một bày đến con cái một bày dừ anh chết mất thây biết láy ai mà nhờ cậy.í í í í .. đêm năm canh thức dậy thấy dường chiếu vắng tanh trước nhớ anh vô cung sau thì nớ nờ vo kể í ì í ì…

Lời bài hát: Thập Ân Phụ Mẫu (Phương Thảo trình bày)
Trưa hè bên chiếc võng đưa Mẹ ru con ngủ giữa trưa bóng tròn Đức mẹ nặng nề là con nhớ Công cha là công cha đức mẹ có nặng nề Con chưa chưa lấy được chút gì báo ân Nào ai có cha rồi thì ai có mẹ thì hơn Ai ơi, có cha rồi thì ai có mẹ nuôi con Thì ơn ấy không cha rồi thì chẳng mẹ Con càng khổ thay con nhớ tình thâm Là con ơi ngày ấy con trọng thay Nhớ tình thâm ơi ngày ấy con trọng thay Ơi công cha rồi thì nghĩa mẹ đến tày bằng non Con ở làm sao là con ơi cho phải đạo làm con Lắng nghe thì con ơi chứ mẹ kể ngọn nguồn khúc nôi Mẹ kể thâm ân kể từ trong lòng mẹ có thai Ơi có âm dương rồi có thiên đình nào Ai biết gì mẹ kể từ khi là con ơi bú mớm nâng niu Con trai rồi thì con gái công lao nhọc nhằn Chăm lo đêm ngày sao cho con ngủ con ăn .

 Một lòng đợi bạn

 I. Người ơi ...ơ..., chứ một lời thề không duyên thì nợ, mà hai lời thề không vợ thì (ơ) chồng, mà ba lời thề khơi núi ngăn sông, em nhớ theo anh cho trọn ơ ... đạo, kẻo luống công anh đợi ...ơ... chờ.

Anh ra đi đá mềm chân cứng, em ở nhà hãy vững như đồng, dù gió bấc mưa đông em xe tròn chiếu lại, con thuyền đạo ngại vững tay lái đồng tâm, cho tình nghĩa ngàn năm ... trọn lời ước nguyện.

Ta thương nhau bằng trời bằng biển, anh xa em như bến xa thuyền, dù bá ngả tùng nghiêng anh một lòng đợi bạn, tình sâu nghĩa nặng dù đá nát vàng phai, lời thề chẳng đơn sai ... một lòng giữ vẹn.

II.Anh ra đi đá mềm chân cứng, em ở nhà hãy vững như đồng, dù gió bấc mưa đông em xe tròn chiếu lại, con thuyền đạo ngại vững tay lái đồng tâm, cho tình nghĩa ngàn năm ... trọn lời ước nguyện.

Ta thương nhau bằng trời bằng biển, anh xa em như bến xa thuyền, dù bá ngả tùng nghiêng anh một lòng đợi bạn, tình sâu nghĩa nặng dù đá nát vàng phai, lời thề chẳng đơn sai ... một lòng giữ vẹn.

Năm canh em thức (ơ) trọn để gan héo ruột khô, đêm em đứng em chờ như mong tằm nhả kén, bao nỗi niềm anh chờ mong. Hỡi người ơi ... đã thương nhau dù cho chớp bể mưa nguồn, lòng anh giữ vẹn lời nguyền, tình anh ... giữ vẹn ...thủy chung.