Nghiên cứu kinh dịch
Thứ Ba, 18 tháng 3, 2025
CẢM XẠ – BÍ ẨN SỨC MẠNH TIỀM THỨC & KHẢ NĂNG DỰ ĐOÁN ĐẦY KỲ DIỆU
Bạn có tin rằng cơ thể con người có thể cảm nhận được năng lượng vô hình?
Bạn đã từng nghe về những người có thể dò tìm nước ngầm, phát hiện mạch khí đất tốt – xấu, cảm nhận từ trường hay dự đoán tương lai mà không cần thiết bị khoa học hỗ trợ?
Đó không phải là phép màu, mà là sự ứng dụng của Cảm Xạ Học – một bộ môn nghiên cứu về khả năng cảm nhận và sử dụng năng lượng vi tế trong vũ trụ.
⸻
1.Vậy Cảm Xạ là gì?
Cảm Xạ (Radiesthesia) là một ngành khoa học nghiên cứu về khả năng cảm nhận, đo lường và ứng dụng các trường năng lượng xung quanh chúng ta.
Theo nhiều tài liệu cổ xưa, con người từ lâu đã có thể sử dụng Cảm Xạ để:
✔️ Tìm mạch nước ngầm – Ứng dụng phổ biến từ thời cổ đại.
✔️ Chữa lành cơ thể – Cảm nhận và điều chỉnh dòng năng lượng bên trong con người.
✔️ Dự đoán & đo lường năng lượng sự vật, hiện tượng.
✔️ Kiểm tra phong thủy, năng lượng đất đai, nhà cửa.
Ngày nay, Cảm Xạ không còn là huyền bí mà đã trở thành một môn khoa học kết hợp giữa trực giác con người và năng lượng sinh học.
⸻
2. Cảm Xạ hoạt động như thế nào?
Con người không chỉ có thể xác mà còn có trường năng lượng sinh học. Khi chúng ta tập trung vào một vấn đề nào đó, cơ thể sẽ tạo ra phản ứng rung động nhẹ (mà thường ngày ta không nhận ra).
Khi sử dụng các công cụ như con lắc cảm xạ, đũa cảm xạ, ta có thể khuếch đại những rung động này để thu thập thông tin từ năng lượng vô hình của vũ trụ.
🌀 Ví dụ thực tế:
• Khi đặt một câu hỏi, nếu con lắc xoay theo một hướng nhất định, ta có thể hiểu được câu trả lời dựa trên tần số năng lượng phản hồi.
• Khi dò tìm mạch nước ngầm, đũa cảm xạ sẽ tự động dao động mạnh hơn khi đến gần nguồn nước.
Đây không phải là “siêu năng lực”, mà là cách cơ thể giao tiếp với năng lượng xung quanh!
⸻
3. Ứng dụng của Cảm Xạ trong cuộc sống
🔹 A. Tìm mạch nước, khoáng sản, năng lượng đất đai
• Ở các vùng nông thôn, Cảm Xạ vẫn được dùng để tìm nguồn nước ngầm.
• Các nhà nghiên cứu sử dụng Cảm Xạ để đo năng lượng đất, phát hiện mảnh đất có phong thủy tốt hay xấu.
🔹 B. Kiểm tra sức khỏe, tự chữa lành cơ thể
• Con lắc cảm xạ có thể giúp kiểm tra tình trạng năng lượng của các cơ quan trong cơ thể.
• Ứng dụng trong năng lượng chữa lành: Giải tỏa stress, cân bằng khí huyết, tăng cường sức đề kháng.
• Một số trường phái Cảm Xạ còn hướng dẫn cách dùng năng lượng để hỗ trợ chữa bệnh không dùng thuốc.
🔹 C. Ứng dụng trong phong thủy, nhà cửa
• Kiểm tra năng lượng đất, phát hiện nơi có từ trường xấu.
• Đo năng lượng của vật phẩm phong thủy, trang sức hộ mệnh để chọn vật phù hợp với bản thân.
🔹 D. Dự đoán tương lai, tìm kiếm vật thất lạc
• Một số chuyên gia Cảm Xạ có thể dùng con lắc để dự đoán xu hướng vận mệnh, thời điểm tốt xấu.
• Cảm Xạ cũng giúp tìm lại vật bị mất, bằng cách kết nối với năng lượng của vật đó.
Và còn rất nhiều ứng dụng khác nữa. Rất tuyệt vời!
Thứ Bảy, 25 tháng 1, 2025
KINH DỊCH VÀ NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA TỪ KINH DICH
KINH DỊCH VÀ NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA
Kinh Dịch là một trong Ngũ Kinh, nò là một tác phẩm triết học cổ xưa của người phương Đông có tầm ảnh hưởng lớn đối với nhiều lĩnh vực từ triết học, đạo đức học, y học, chính trị, đến bói toán. Nó được xem là sự tổng kết quy luật vận động và biến hóa của vũ trụ thông qua các biểu tượng đơn giản nhưng sâu sắc, dựa trên âm dương và bát quái.
Kinh Dịch bao gồm hai phần chính:
1. Kinh (Quẻ Dịch): Gồm 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào, thể hiện các trạng thái vận động của vạn vật trong tự nhiên và xã hội.
2. Truyện (Thập Dực): Các bài bình luận được cho là do Khổng Tử và học trò viết, giải thích ý nghĩa của quẻ và hào.
Các nguyên lý cốt lõi trong Kinh Dịch
1. Nguyên lý âm dương
• Âm và dương là hai lực cơ bản, đối lập nhưng bổ sung lẫn nhau, tạo nên mọi sự biến hóa trong vũ trụ.
• Quy luật âm dương thể hiện qua:
• Sự đối lập (mâu thuẫn): ngày – đêm, sống – chết, nóng – lạnh.
• Sự hỗ trợ (hòa hợp): âm không thể tồn tại mà không có dương và ngược lại.
• Ý nghĩa triết học: Cân bằng âm dương dẫn đến hòa hợp và ổn định. Khi mất cân bằng, sẽ xảy ra sự rối loạn biến đổi.
2. Nguyên lý dịch (biến đổi)
• “Dịch” nghĩa là sự thay đổi, vận động không ngừng. Mọi vật trong vũ trụ đều trải qua quá trình sinh, trưởng, suy, diệt.
• Biến đổi là quy luật bất biến. Không có gì tồn tại mãi ở trạng thái cố định.
3. Quy luật ngũ hành
• Năm yếu tố cơ bản cấu thành vũ trụ: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
• Các yếu tố này có quan hệ tương sinh (nuôi dưỡng) và tương khắc (kiềm chế).
Kinh Dịch phân thành 64 quẻ, mỗi quẻ tượng trưng cho một thời cụ thể. Mỗi quẻ gồm 6 hào, và mỗi hào thể hiện trạng thái âm hoặc dương thể hiện cho một hoàn cảnh cụ thể.
• Quẻ Càn: Tượng trưng cho trời, biểu hiện sức mạnh sáng tạo, sự bền bỉ.
• Quẻ Khôn: Tượng trưng cho đất, biểu hiện sự nhu thuận và dung dưỡng.
• Các quẻ khác như Tốn (gió), Chấn (sấm), Khảm (nước), Ly (lửa) đều biểu thị các hiện tượng tự nhiên hoặc các khía cạnh cuộc sống con người.
Phan Bội Châu, Nguyễn Hiến Lê và nhiều tác giả VN khác đã có sách viết rất hay về nội dung các quẻ. Các bạn có điều kiện nên tìm đọc.
Những bài học sâu sắc từ Kinh Dịch:
1. Nhận thức quy luật biến đổi để thích nghi và phát triển
Kinh Dịch dạy rằng mọi vật đều thay đổi, và con người cần hiểu quy luật biến hóa để thích nghi với hoàn cảnh.
• Bài học: Hãy luôn chuẩn bị cho sự thay đổi, không quá bám víu vào thành công hay thất bại hiện tại. Thành công không kéo dài mãi, nhưng thất bại cũng không là vĩnh cửu. Biết nhận thức thời cơ và điều chỉnh hành động đúng lúc sẽ giúp đạt được kết quả tốt nhất.
2. Hành động theo thời và thuận thời
Nguyên lý “thuận thời” là cốt lõi của Kinh Dịch. Làm việc đúng thời điểm, phù hợp với hoàn cảnh thì thành công sẽ dễ đạt được.
• Ví dụ: Trong kinh doanh, nhận biết khi thị trường thay đổi để điều chỉnh chiến lược phù hợp giúp tránh rủi ro và tận dụng cơ hội.
3. Cân bằng âm dương trong mọi khía cạnh của cuộc sống
Quy luật âm dương nhắc nhở con người về tầm quan trọng của sự cân bằng trong suy nghĩ, cảm xúc và hành động.
• Bài học: Quá cứng nhắc cực đoan bảo thủ hoặc quá nhu nhược đều không tốt. Biết kết hợp linh hoạt giữa mềm và cứng, giữa lý trí và cảm xúc sẽ giúp xử lý vấn đề một cách toàn diện và hiệu quả. Kể từ gia đình và ra ngoài xã hội.
4. Khả năng tự hoàn thiện và tiến bộ không ngừng:
Kinh Dịch khuyến khích con người cải tạo bản thân và không ngừng học hỏi để tiến bộ.
• Quẻ Càn biểu tượng cho sự sáng tạo và tiến lên không ngừng.
• Bài học: Luôn phấn đấu, đổi mới để nâng cao bản thân, không ngừng học hỏi để thích nghi với những thay đổi của xã hội.
5. Đạo đức và nhân nghĩa làm nền tảng cho cuộc sống hạnh phúc:
Kinh Dịch nhấn mạnh rằng đức hạnh là cơ sở cho vận may và sự thịnh vượng lâu dài.
• Bài học: Sống có đạo đức, giữ gìn nhân nghĩa không chỉ giúp hòa hợp với xã hội mà còn mang lại sự bền vững trong các mối quan hệ.
Kết luận
Kinh Dịch là kho tàng tri thức triết học vĩ đại, cung cấp những nguyên lý bất biến về sự vận động và biến hóa của vạn vật. Những bài học sâu sắc về biến đổi, thuận thời, cân bằng âm dương, và tự hoàn thiện bản thân có giá trị to lớn trong cuộc sống và công việc. Vận dụng tốt tư tưởng Kinh Dịch vào việc Tu - Tề - Trị - Bình sẽ giúp con người sống vui vẻ hòa hợp với tự nhiên và xã hội, dễ đạt được thành công bền vững và hạnh phúc lâu dài. Năm mới chúc các bạn sức khoẻ, may mắn, thịnh vượng./.
Thứ Tư, 22 tháng 5, 2024
NHỮNG CÂU NÓI ĐÁNG SUY NGẪM TRONG KINH DỊCH
MỘT SỐ CÂU DANH NGÔN TRONG KINH DỊCH
1. Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức.
天行健,君子以自強不息。
Sự vận chuyển của trời đất rất mạnh (không lúc nào nghỉ), người quân tử cũng theo trời mà tự cường không nghỉ. (Đại Tượng truyện – quẻ Khôn)
2. Địa thế khôn, quân tử dĩ hậu đức tải vật.
地勢坤,君子以厚德載物。
Khôn mang trọng trách của đất, người quân tử nhờ đức đầy mà dung chở được vạn vật. (Đại Tượng truyện – quẻ Khôn).
3. Quân tử dĩ kiệm đức tị nạn, bất khả vinh dĩ lộc.
君子以儉德辟難,不可榮以祿。
(Gặp thời bĩ thì) người quân tử nên thu cái đức của mình lại (đừng hành động gì cả, riêng giữ các đức của mình) để tránh tai nạn, đừng màng chút lợi danh nào cả. (Đại Tượng truyện – quẻ Bĩ).
4. Quân tử dĩ kiến thiện tắc thiên, hữu quá tắc cải.
君子以見善則遷,有過則改。
Người quân tử thấy điều thiện thì tập làm điều thiện, thấy mình có lỗi thì sửa lỗi. (Đại Tượng truyện – quẻ Ích).
5. Đồng nhân vu tôn, lận.
同人于宗,吝。
(Chỉ) chung hợp với người trong họ, trong đảng phái, xấu hổ. (Tiểu Tượng truyện – hào 2 quẻ Đồng nhân).
6. Khiêm khiêm quân tử, dụng thiệp đại xuyên.
謙謙君子,用涉大川。
Người quân tử khiêm rồi lại khiêm, dùng đức đó mà qua được sông lớn (qua được tai nạn).(Tiểu Tượng truyện – hào 1 quẻ Khiêm).
7. Lao khiêm quân tử, vạn dân phục dã.
勞謙君子,萬民服也。
Bậc quân tử cần mẫn, khó nhọc mà khiêm thì vạn dân đều theo. (Tiểu Tượng truyện – hào 3 quẻ Khiêm).
8. Hữu phu, huệ tâm, vật vấn, nguyên cát. Hữu phu, huệ ngã đức.
有孚,惠心,勿周,元吉。有孚,惠我德。
Có lòng chí thành làm ân đức, thì chẳng cần hỏi, cũng biết là rất tốt rồi. Thiên hạ ai cũng tin vào đức ban ân huệ của ta. (Tiểu Tượng truyện – hào 5 quẻ Ích).
9. Nhất âm, nhất dương chi vị đạo.
一陰,一陽之謂道。
Một âm, một dương gọi là đạo. (Hệ Từ truyện – quyển thượng).
10. Nhân giả kiến chi vị chi nhân, trí giả kiến chi vị chi trí
仁者見之謂之仁,知者見之謂之知。
(Đạo rất huyền nhiệm tinh vi, không ai biết hết được, tùy bẩm thụ khác nhau mà) người (có đức) nhân thấy nó nhân, gọi nó là đạo nhân; người trí (sáng suốt) thấy nó trí, gọi nó là trí. (Hệ Từ truyện – quyển thượng).
11. Thiện bất tích bất túc dĩ thành danh; ác bất tích bất túc dĩ diệt thân.
善不積不足以成名;惡不積不足以滅身。
Không tích lũy được nhiều điều thiện thì không có danh tiếng được, không tích lũy nhiều điều ác thì không đến nỗi bị diệt thân thể. (Hệ Từ truyện – quyển hạ).
12. Dịch, cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu.
易,窮則變,變則通,通則久。
Đạo dịch là đến lúc cùng tất phải biến, đã biến thì thông, nhờ thông mà được lâu dài. (Hệ Từ truyện – quyển hạ).
13. Tiểu nhân dĩ tiểu thiện vi vô ích nhi phất vi dã, dĩ tiểu ác vi vô thương nhi phất khứ dã; cố ác tích nhi bất khả yểm, tội đại nhi bất khả giải.
小人以小善為無益而弗為也,以小惡為無傷而弗去也,故惡積而不可掩,罪大而不可解。
Kẻ tiểu nhân cho rằng một điều thiện nhỏ là vô ích nên không làm, một điều ác nhỏ là vô hại nên cứ làm; vì vậy mà các điều ác cứ tích lũy tới lúc không che giấu được nữa, tội hóa lớn mà không thể tha được. (Hệ Từ truyện – quyển hạ).
14. Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; thủy lưu thấp, hỏa tựu táo, vân tòng long, phong tòng hổ (…) các tòng kì loại dã.
同聲相應,同氣相求;水流濕,火就燥,雲从龍,風从虎(…)各从其類也。
“Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; nước chảy xuống thấp, lửa bén tới chỗ khô; mây bay theo rồng, gió bay theo cọp (…). Mọi vật đều theo loài của nó. (Văn Ngôn truyện).
15. Cư thượng vị nhi bất kiêu, tại hạ vi nhi bất ưu.
居上位而不驕,在下位而不憂。
(Người quân tử) ở địa vị cao mà không kiêu, ở địa vị thấp mà không lo. (Văn Ngôn truyện).
16. Tích thiện chi gia tất hữu dư khương, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương.
積善之家必有餘慶。積不善之家必有餘殃。
Nhà nào tích lũy điều lành thì có thừa phúc (để đến đời sau). Nhà nào tích lũy điều chẳng lành thì tất có thừa tai vạ (để đến đời sau). (Văn Ngôn truyện).
17. Lập thiên chi đạo viết âm dữ dương, lập địa chi đạo viết cương dữ nhu, lập nhân chi đạo viết nhân dữ nghĩa.
立天之道曰陰與陽,立地之道曰柔與剛,立人之道曰仁與義。
(Dịch) lập đạo trời là âm dương, đạo đất là cứng mềm, đạo người là nhân nghĩa. (Thuyết Quái truyện).
18. Đồng tâm chi ngôn, kì xú như lan.
同心之言,其臭如蘭
Hai người mà cũng một lòng (đồng tâm) thì sức mạnh bẻ gãy được loại kim (ngăn cách họ), và lời của họ thấm thía như hương lan. (Hệ Từ truyện – quyển thượng).
19. Lao nhi bất phạt, hữu công chi bất đức, hậu chi chí dã.
勞而不伐,有功而不德,厚之至也。
Khó nhọc mà không khoe khoang, có công với đời mà chẳng nhận là ân đức, đức như vậy là cực dày. (Hệ từ truyện – quyển thượng)
20. Lạc thiên tri mệnh cố bất ưu; an thổ đôn hồ nhân cố năng ái.
樂天知命故不憂;安土敦乎仁故能愛。
Vui lẽ trời, biết mệnh trời cho nên không lo lắng; yên với cảnh ngộ, đôn đốc về đức nhân, cho nên thực hành được bác ái. (Chữ tri mệnh 知命 ở đây tức là chữ tri mệnh trong Luận Ngữ:Ngũ thập nhi tri thiên mệnh. Mệnh không phải là số mệnh, mà là cái luật, cái đạo trời). (Hệ từ truyện – quyển thượng).
(BÀI SƯU TẦM)
Thứ Ba, 21 tháng 5, 2024
PHÚC TỰ NHIÊN LAI TÀI TỰ ĐẾN
LÀM NGƯỜI TÍCH 6 LOẠI PHÚC ĐỨC NÀY THÌ ẮT ĐƯỢC HẠNH PHÚC TRÒN ĐẦY.
(Trích:Tư tưởng đạo gia và Phật gia trong cuộc sống)
Làm người nếu biết lấy đức làm gốc rễ ấy là bậc minh trí, bởi đức hạnh chính là đại biểu cho kết quả hàm dưỡng của một người. Nếu một người không ngừng tu tâm tích đức ắt sẽ gia tăng trí huệ, ngộ đạo nhân sinh, tìm được chân lý và hạnh phúc viên mãn cho chính mình.
LÀM NGƯỜI TÍCH 6 PHÚC : SINH TRÍ HUỆ.
1. Có sức khỏe là phúc:
Tục ngữ có câu: “Làm hoàng đế mắc bệnh không bằng làm kẻ ăn mày mà khỏe mạnh”. Sức khỏe chính là phương tiện tải thể của trí huệ, là tiền đề của sự nghiệp, một người nếu như mất đi sức khỏe, vậy xem như là mất tất cả. Vì để có một thân tâm khỏe mạnh, ắt phải dưỡng thân, ăn uống có chừng mực, thường xuyên vận động, tránh rượu chè, tửu sắc vô độ. Không những vậy còn phải đề cao việc tu tâm dưỡng tính, tránh xa oán giận, ít tranh chấp với người khác, bảo trì tâm thái điềm tĩnh, hòa ái một cách tối đa.
2. Gia hòa là phúc:
Cổ nhân thường nói: “Gia hòa vạn sự hưng”, hay: “Gia hòa phúc tự đáo”. Nếu chúng ta có một gia đình hòa hợp, tương thân tương ái, trên dưới đồng thuận chính là có được một hậu phương vững chắc để tự tin bước ra ngoài mà gây dựng cơ nghiệp, cũng chính là có được dũng khí để đương đầu với tất cả chông gai của cuộc sống. Vậy nên có được một gia đình hòa thuận chính là: “Phúc trong phúc”
3. Chịu thiệt là phúc:
Thường thì những người đức không cao, lòng không rộng, nhân cách không chính trực khó có thể chấp nhận bản thân chịu thiệt. Người có thể vui vẻ chịu thiệt đó cũng chính là một cảnh giới của sự tu dưỡng. Không sợ chịu thiệt, việc nhiều thì làm thêm một ít, ngược lại có thể tôi luyện tâm tính cho bản thân, nâng cao năng lực chịu đựng, trong các mối quan hệ cũng thể hiện được tấm lòng độ lượng của bậc quân tử.
4. Bảo trì cuộc sống thanh đạm là phúc:
Cuộc sống bộn bề, áp lực như núi, làm người có thể sống cuộc đời thanh đạm ấy cũng là phúc: đói thì ăn, mệt thì nghỉ, việc đến thì làm, cần cù chịu khó, sống với hiện tại, ấy cũng chính là phúc.
5. Biết đủ là phúc:
Nhân sinh tại thế, lòng tham của con người xưa nay vốn không hề có đáy. Nhưng thóc đầy kho lụa đầy nhà; nhà trăm gian đất nghìn mẫu thì cũng cơm ngày ba bữa, áo quần vài bộ, tối ngủ giường ba thước. Tham lam tài vật thái quá đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng chẳng mang được thứ gì. Vậy nên làm người mà biết ung dung tự tại, không tham không sân, biết đủ là phúc.
6. Sống tùy duyên là phúc:
Nhân sinh vạn nẻo, kiếp người chìm nổi tựa phù vân, đa phần sống ở đời nếu mười phần thì có đến bảy, tám phần không như ý, giờ phút vui vẻ chẳng được đáng là bao, thời gian như nước chảy qua cầu. Vậy nên biết sống tùy duyên ấy là hạnh phúc, điều đến thì đón nhận, điều đi thì buông bỏ, vạn vật tùy cảnh, vạn sự thì tùy thời, đó cũng chính là cảnh giới của bậc trí giả. Sướng khổ buồn vui ấy đều do quan niệm của mình chi phối, làm người mà có thể coi nhẹ được mất thì ắt không gì có thể khiến cho chúng ta buồn khổ được.
LÀM NGƯỜI HÀNH 6 ĐỨC : ẤY THÂN TU DƯỠNG
1. Khẩu đức:
Người xưa thường dạy: “Thiện ý một câu ấm ba đông; lời ác lạnh người sáu tháng ròng”. Đời người họa hay phúc đều do cái miệng mà ra, vậy nên làm người thì việc trước nhất chính là tu dưỡng cái miệng của mình: Luôn nói lời chân thực, không nói lời lộng ngữ thị phi, mỗi khi nói phải nghĩ trước nghĩ sau, nghĩ đến cảm thụ của người nghe. Khi nói chuyện thì nên chú ý thời cơ, địa điểm, lúc nào cần nói lúc nào không, đặt cơ điểm từ góc độ của người nghe mà nói.
2. Ban đức:
Có câu: “Tay tặng hoa hồng ắt giữ thơm”, vỗ tay cho người khác thì mặt mình tự cũng vui tươi, khích lệ cho người, trí huệ bản thân tự ắt cũng tăng. Khổng Tử nói “Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác; tiểu nhân phản thị”. (Đại ý: Người quân tử tạo thành cái hay cho người khác, không gây thành cái ác cho người ta; tiểu nhân thì không thế).
3. Diện đức (cái đức của diện mạo):
Người sống nhờ mặt, cây sống nhờ vỏ, cây không có vỏ cây chẳng thể sinh tồn, người không có thể diện người chẳng thể dung thân. Tu dưỡng tốt diện mạo của mình cũng là giúp người lưu lại cái uy danh.
4. Tín đức:
Xưa nay, chữ tín luôn là cái vốn để làm người, làm người không có chữ tín hỏi có ai ưa? Vậy nên, tín chính là cái vốn tài sản lớn nhất của đời người, có thể lấy được lòng tin của thiên hạ chính là tài sản vô giá. Khổng Tử nói: “Vô tín nhi bất lập”, ý nói rằng người mà không giữ chữ tín thì không có chỗ sinh tồn, không có chỗ đứng trên thế gian này. Cũng có người nói, chữ tín là sinh mệnh thứ hai của con người. Câu nói này thực ra rất có đạo lý.
5. Khiêm đức:
Đây là nói cái đức của sự khiêm nhường, cổ nhân xưa nay vẫn luôn nhìn nhận rằng khiêm nhường chính là một loại mỹ đức thể hiện tinh thần hàm dưỡng tôn quý. Nhường người ba tấc mình cũng lợi hai phần, trong “Chu Dịch” viết rằng: “khiêm tốn là cái gốc của đạo đức, nhường nhịn đứng đầu mọi loại lễ nghi, phép tắc”.
Người khiêm nhường, tao nhã là người có đức hạnh cao, tấm lòng độ lượng bao dung, cũng là người một lòng cung kính đối với mọi việc, mọi người xung quanh. Sự cung kính đó không phải bắt nguồn từ lòng sợ hãi mà xuất phát từ sự tôn trọng.
Như vậy, người xưa nhìn nhận rằng, dù là đạo trời hay đạo làm người, cái gốc đều ở một chữ “Khiêm” này.
6. Trọng đức:
Trong cuộc sống chúng ta đều hiểu là phải biết tôn trọng người khác, nhưng rất ít người có thể thật sự hiểu được ý nghĩa của điều này.
Mạnh Tử nói: “Thương người thì người thương lại mình, kính người thì người kính lại mình”. Câu nói này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc biết tôn trọng người khác. Khi kết giao với người khác, nếu có thể hiểu và tôn trọng họ, vậy thì ta cũng sẽ được họ hiểu và tôn trọng lại mình gấp trăm lần.
Người có tu dưỡng thì đối với bất kể ai cũng đều tỏ thái độ khiêm nhường, tôn trọng. Tôn trọng người dưới chính là một loại mỹ đức, tôn trọng người dưng chính là một loại ý thức, tôn trọng đối thủ là một loại độ lượng, tôn trọng tất cả mọi người là một loại giáo dưỡng.
LĨNH 6 NGỘ: NÂNG CAO TẦNG THỨ.
1. Dục vọng không thể phóng túng:
Lão Tử nói: “Ngũ sắc lệnh nhân mục manh; ngũ âm lệnh nhân nhĩ lung; ngũ vị lệnh nhân khẩu sảng; trì sính điền liệp, lệnh nhân tâm phát cuồng; nan đắc chi hóa, lệnh nhân hành phương” (Đại ý: Ngũ sắc làm cho mắt người ta nhìn không thấy; ngũ âm làm cho tai người ta nghe không ra; ngũ vị khiến người tê lưỡi, mất cảm giác; rong ruổi săn bắn, khiến tâm người nổi loạn, thứ khó được khiến người gây trở ngại cho chính mình).
Làm người mà quá truy đuổi cảm giác kích thích bản thân, cuối cùng lại hại chính mình, làm cho ngũ quan mất đi năng lực vốn có của nó. Làm người mà phóng túng dục vọng bản thân chính là sai lầm trong những sai lầm, không chỉ là hại thân mà còn khiến cho con người ta chìm đắm hưởng lạc quên đi ý chí cầu tiến.
2. Tài không thể tham:
Khổng Tử nói: “Phú dữ quý, thị nhân chi sở dục dã, bất dĩ kì đạo đắc chi, bất xử dã” (Đại ý: Phú và quý là thứ mà ai ai cũng mong muốn truy cầu, tuy nhiên nếu như không dùng cách quang minh chính đại mà có được nó thì chẳng thể hưởng thụ được nó. Có được rồi ắt cũng sẽ gặp tai họa). Người tham tài cũng như uống nước biển vậy, càng uống càng khát, càng uống càng hại thân.
3. Không tức giận:
Có câu:
“Người nhất đẳng, có bản sự, không tức giận
Người nhị đẳng, có bản sự, có tức giận
Người vô đẳng, không bản sự, luôn tức giận”.
Vậy nên, làm người khống chế được chính mình, ắt không tức giận.
4. Việc gì cũng không được quá độ:
Mặt trời lên cao mặt trời lặn; trăng tròn đầy trăng ắt lại khuyết. Mỗi một sự việc khi phát triển đến điểm cực độ ắt sẽ suy thoái. Đây chính là lẽ thường tình. Vậy nên, sống ở đời làm bất cứ việc gì cũng không được quá độ, cũng như hoa thời đang nở, rượu thời chưa say, cơm thời chưa đủ mới là lúc khiến tinh thần con người ta thanh tỉnh nhất.
5. Có tiền thì không nên quá tiết kiệm:
Có anh nhà giàu nhưng keo kẹt, một hôm cao hứng mở kho tiền ra khoe với anh hàng xóm, anh hàng xóm xem xong nói: “Tôi và anh đều như nhau, chúng ta thật nhiều tiền”. Anh nhà giàu keo kẹt thấy vậy hỏi: “Anh nghèo kiết xác, tiền ơ đâu ra mà nói giống tôi?”. Anh hàng xóm đáp: “Tiền của anh có nhưng chẳng giám tiêu mà chỉ để nhìn, bây giờ tôi và anh đều đang nhìn giống nhau, vậy chẳng phải anh và tôi đều như nhau sao?”. Con người sống ở đời: lúc đến tay không, lúc đi cũng tay không, làm người thì không nên quá hà tiện, nhưng cũng cần chi tiêu cho hợp lý, tránh tình trạng hoang tiêu lãng phí.
6. Đi tìm ý nghĩa:
Nhân sinh tại thế sống vì điều gì? Mỗi người đều đi tìm kiếm ý nghĩa, mục đích sống cho riêng mình. Kẻ vì bản thân, người vì nghĩa lớn. Còn nếu như chỉ vì đói ăn khát uống vậy thì người và vật nào khác chi nhau là mấy? Vạn vật trên đời đến và đi ắt đều có nguyên nhân và sứ mệnh của mình, không gì là ngẫu nhiên vô cớ.
Đạo gia và Phật gia xưa nay vẫn luôn nhìn nhận rằng con người vì có tội, vì nghiệp lực vị tư sinh ra mà phải giáng hạ xuống nơi thế gian này. Vậy nên nhân sinh tại thế chính là phải biết tìm kiếm cho mình con đường phản bổn quy chân, quay về với bản ngã của chính mình để từ đó mà hồi thăng và nâng cao tầng thứ sinh mệnh. Đó mới là ý nghĩa chân chính cao cả và tốt đẹp nhất của đời người.
Thứ Ba, 26 tháng 12, 2023
Phong thuỷ âm trạch Cái Bạch
CÁO BẠCH
Chân ngôn thành ý ngỏ lời
Khuyên ai đã biết, mách người chưa hay;
Thần tiên quý bái xưa nay
Chớ nên dấu diếm mới dầy phúc sanh
Đây là Địa lý tạo thành,
Âm phần, Dương trạch phát sinh ra người
Thông minh, trí, dũng, anh tài.
Biết thì làm được, tương lai thấy liền!
Chính là hài cốt Tổ tiên!
Khí thiêng hun dúc, kết, truyền tinh anh
Nẩy ra con cháu tốt lành
Trai tài, gái sắc, hiển vinh, sang, giầu!
Những người bần tiện, ưu sầu!
Cũng vì mồ mả, nên mau kiếm thày!
Hoặc là học sách càng hay!
Biết tìm đất táng, sau này vinh hoa!
Muốn cho cường thịnh Quốc gia
Xã hội tốt đẹp, mọi nhà tự lo;
Cho mình khỏe mạnh tài ba
Lương tri đạo lý, đó là Hiền nhân.
Nước nào tiến hóa tinh thần
Là do ý thức công dân có nhiều.
Muốn cho trình độ tiến đều
Vậy nên phổ biến những điều quý hay.
Biết là tạo hóa đã bày
Á, Âu, Phi, Mỹ giống loài khác nhau:
Âm dương, khí hậu, sắc mầu
Mỗi phương một tính, phải đâu cùng mà…!
Nhớ rằng: Học vấn tinh hoa
Đông phương sớm nhất, như là Thần tiên!
Đãn hiềm! Bí hiểm vô truyền!
Thứ dân bị cấm! Ưu tiên Chúa hoàng!
Cái hay không được mở mang!
Để giòng dõi nối ngai vàng được lâu
Vậy nay thua kém Mỹ, Âu!
Bởi nhân tài ít! Cả châu thiệt thòi!
Dám khuyên: Xưa đã lỡ rồi!
Thì nay cải tiến, tạo thời tương lai
Tương lai sản xuất nhân tài
Lần lần biến hết lớp người hèn ngu!
Hèn ngu cũng tại mả mồ!
Bởi vì sát khí hung vô, hủ hài ( xương nát)
Hủ hài u trọc xông hơi,
Hơi tìm hợp nhập những người đồng tông
Cùng chung máu mủ cha ông,
Truyền thai con cháu, nhiễm dòng trọc ô!
Được nơi sinh, vượng táng vô
Thi hài kết, phát, tức là tinh anh!
Tinh anh truyền nhiễm thai, sinh,
Con người trí thức thông minh, sắc tài.
Tự mình, đừng có chờ trời!
Đợi trời lâu lắm! Đất thời chóng thay!
Biết thì nên kíp làm ngay,
Gặp ngôi tốc phát, con hay xuất liền!
Vậy tin Địa lý: Thần tiên!
Chính tôi đã nghiệm, quả nhiên thấy rồi!
Thề rằng: Không dám nói sai!
Ngày đêm viết sách, mách đời cái hay
Ai khôn học lấy cái này,
Tạo cho dòng giống mai ngày vinh quang.
TỰ TỐ
Kính xin chư vị Cổ Tiên, Thánh Hiền Tiền Triết đại xá!
và các bạn Thức giả thứ cho
Thứ Hai, 14 tháng 11, 2022
PHÚ ĐOÁN TV
Phú Nôm trích trong Tử Vi Áo Bí
Tử vi
Tử-vi mặt đỏ, lưng dầy
Tính tình trung hậu, người đầy phương viên
Mệnh an Ngọ, song tuyền phú quý
Tuổi Giáp, Đinh duy chỉ hai người
Tử-vi tọa thủ cửa trời
Nếu vô Sát Tấu, một đời công khanh
Vận suy, hạn nhược chẳng lành
Được sao Tử đóng bên mình giải hung
Tử, Tham, Tả, Hữu hội trung
Có người con gái lộn chồng tìm ra
Thiên Cơ
Sao Thiên Cơ đồng cung Quyền, Kỵ.
Tuổi Tuất, Thìn, túc trí cơ mưu
Thông minh, biến hóa đủ chiều
Cự, Cơ, Tý, Ngọ mỹ miều lắm thay
Tuổi Đinh, tuổi Quý mới hay
Thạch Trung Ẩn Ngọc, cách này trời ban
Những người tuổi Bính, tuổi Tân
Cự, Cơ, Mão,Dậu thập phần giàu sang
Lâu đài gấm vóc thênh thang
Xum xuê hoa lá, đầy dương bạc tiền
Cự Cơ Tuần Triệt tại Điền
Tư cơ cha mẹ không truyền cho con
Cơ Lương, Thái Tuế, Tang Môn
Lâm vào chốn hãm, cành con chớ trèo
Cự ngộ Hổ, chó đá chầu
Ngộ Dương Đà, có thạch đầu tại gia
Thiên-Cơ, Bạch-hổ mà gia
Tang-Môn, Điếu-Khách, là sa hoàng tuyền
Thái Dương
Thái-Dương chủ Quan-Lộc tinh
Ngọ cung, Hỏa mệnh quang vinh nhất đời
"Địch quốc chi phú" là người
"Tranh quyền chi vị" nết thời khó thương
Cư cung Mão "Lương Xương Lộc hội
Tuổi Tuất, Thìn cách tối vinh xương"
Chính là: Nhật xuất phù tang
Giữ ngôi Tể Tướng quyền sang nhất triều
Dần đến Ngọ là chiều cát vượng
Trí thông minh, hình tướng gọn gàng
Ở ăn tươm tất đàng hoàng
Chuộng điều phước thiện, tránh đường vô liêm
Canh niên, Mão vị không hiềm
Tuổi Nhâm, cung Ngọ quý quyền hanh thông
Thái-dương, Hợi địa bất dung
Tự Dậu tới Sửu nghịch dòng chẳng hay
Dương Đà Không kiếp ăn mày
Mua phiền chuộc não lo ngày lo đêm
Thiết bi hãm sắc, tính hèn
Dương Đà Ngộ Kỵ, mắt phiền kém tươi
Gia nhân sạ khứ, sạ hồi
Bởi sao Nhật Nguyệt hãm ngồi Nô cung
Thiên-tài ngộ Nhật bất trung
Tính tình nhâng nháo, dể dưng Phật, Thần
Vũ Khúc
Vũ-Khúc là sao Kim hình
Vóc người nho nhỏ, tính tình thanh cao
"Chí cương chí nghị" anh hào
Khoan dung đại lượng lược thao gồm tài
Mệnh Sửu Mùi, đồng hai Văn, Vũ
Tuổi Thổ phùng Thai Tọa tam phương
Binh quyền vạn lý nghênh ngang
Anh hùng "danh trấn chư bang" một thời
Ai người tuổi Thổ, Kim hoặc Mộc
Gặp Tham-Lang Vũ-Khúc đồng liêu
"Văn mô vũ lược kiêm ưu
Mộ trung Thai Tọa", cách siêu mọi người
Thiên Đồng
Thiên-đồng mắt lớn lưng dầy
Vóc người mập mạp, diện đầy, phương viên
Tâm cao chí đại nhưng hiền
Không cao ngạo, dẫu bút nghiên thực tài
Đãn hiềm Đà, Kỵ lâm lai
Mắt lươn ty hý, lại hay ngồi đồng
Cúng Kinh-Dương tọa Ngọ cung
Với sao Phượng, Giải anh hùng một phương
Dần Thân cung, Đồng Lương đắc cách
Giáp Tân Canh "Thủ bạch thành gia"
Thiên-lương, Nguyệt-đức chiếu kề
Một là đạo sĩ, hai là tăng nhân
Với những người tuổi Thân, Thìn, Tý
Cách Đồng Lương Cơ Nguyệt tạo nên
Quan sang, lộc trọng vững bền
Cửa nhà cao rộng, bạc tiền đầy kho.
Liêm Trinh
Liêm-trinh, hỏa vượng thân tràng
Lộ hầu, lộ nhãn, mắt vàng mày thưa
Cư Thân, Mệnh, hóa Đào-Hoa
Ăn chơi, phóng đãng, xa hoa khác người
Hãm cung đóng tại Sửu, Mùi
Riêng hợp tuổi Bính thành người giầu sang
Cùng Tướng, Lộc hội tam phương
Quyền cao, lộc trọng, phong quan mọi đàng
Dần Thân với Khúc Xương đồng cúng
Văn đã hay, võ cũng đồng tài
Anh hùng cái thế trong đời
Liêm Tham Tỵ Hợi, gặp thời "huyền tu"
Thái Âm
Mệnh, Thân có Thái-âm tọa chủ
Hợi cung, người Mệnh Thủy Mộc Kim
Cách là: "Nguyệt lãng thiên môn"
Tư cơ đồ sộ, quyền môn chói lòa
Âm hội Lộc, Quyền Khoa cư Tý
Tuổi Quý Nhân, phú hiển trăm phần
"Thiên lương, Nguyệt diệu, dâm bần
Ngộ Dương Đà, phải thương nhân, tán tài
Hội Tả, Hữu, Lộc-tồn, Vũ-khúc
Cách riêng cho những bậc phú ông
Thái-âm ngộ Kỵ, Hình đồng
Mắt mờ, có tật, bằng không mù lòa
Tham Lang
Tham-lang khả biến thành Đào
Mệnh Tham Sinh Vượng sống lâu hơn người
Tham, Linh Hỏa an bài Tử Mộ
Ngôi công hầu, triệu phú gia tư
Tham-lang ác sát đồng cư
"Cẩu thâu thử thiết" nghê tư chính nòi
Tham với Tả, Hữu, Khôi, Việt hội
Mộc sinh nhân Thầy Bói lừng danh
Tham lang, Vũ-khúc đồng hành
Mệnh cư Mùi, Sửu tất thành phú thương
Tham nhân, hội Văn-Xương, Văn-Khúc
Chính thực chàng đại dóc ba hoa
Cư Hợi, Tý ngộ Dương Đà
Cuộc đời "Phiếm thủy đào hoa" bồng bềnh
Hai tù tinh "Tham Liêm Tỵ, Hợi"
Ngộ Triệt Tuần phản hữu kỳ công
Tham Hỏa miếu, cách phú ông
"Tham Linh tịnh thú" Tướng hùng vang danh
Cự Môn
Thân Mệnh, Cự-môn, Tý Ngọ chuẩn
Phùng Triệt, Tuần "ngọc ẩn thạch trung"
Cách này phú quý vô song
Cự phùng Quyền Lộc cũng đồng vinh xương
Cự, Đà, Tấu, Tuế một đoàn
Tháng ngày chầu chực công môn miệt mài.
Cự môn, Thìn Tuất hai nơi
Đầu đình, góc chợ những người ngụ cư
Duy tuổi Tân, phản vi phú quý
Vì Cự-Môn phương vị Tốn, Tân
Sao Cự Nhật, cung Dần Thân
Ngộ Quyền, ngộ Phượng, phong vân gặp thì
Ngành Tư Pháp, Luật-sư cãi giỏi
Mệnh Cự-Môn hội với Tuế Hình
Ai người miệng kín như bình
Thái-tuế, Việt, Kỵ song hành Cự-Môn
Thiên Tướng
Tướng Ấn chính vị Công Hầu
Binh, Hình, Lộc, Mã hội chầu Mệnh viên
Cung Thìn Tuất, Mệnh an Tướng thủ
Quan-Lộc cung vượng khí công danh
Thiên tướng chẳng kỵ Sát tinh
Chỉ hiềm Triệt lộ đầu mình phân hai
Thiên tướng là mặt con người
Hương trời sắc nước mệnh ai Tướng Hồng
Đãn hiềm lấn át quyền chồng
Tướng, Phúc, Hình, Kỵ bóng đồng tổn hao
Tướng và Khúc, hội Đào Mộc Cái
Sắc khuynh thành, chết bởi dâm bôn…
Thiên Lương
Thiên Lương, mộc chủ Thọ tinh
Đông cung Thân, Tuất, Thìn Dần mới hay
Nữ lưu thủ mệnh phúc đầy
Hao, Hình, Kiếp, Sát một bầy tai ương
Mệnh cung: "Ngọ thượng Thiên-lương"
Tuổi Đinh, Kỷ, Quý quyền sang nhất triều
Hội Thất Sát, Song Hao tại Tỵ
Phải đề phòng hiểm họa đao thương
Ngộ Trì "Soi bóng đài gương"
Vị công hầu, hội Văn-xương một nhà
Tuổi hoa nở, đăng khoa cao chiếm
Bởi Thiên lương thủ mệnh Tý cung
Xương Lộc hội Nhật chiếu xung
Đè đầu sĩ tử, văn hùng nhất danh.
Thất Sát
Thất-sát thuộc Kim ưng đới Hỏa
Đóng Dần, Thân miếu địa an bài
Giáp, Canh, Đinh, Kỷ bốn người
Danh cao, Lộc trọng một đời vinh xương
Sát, Xương, Khúc "tứ phương củng phục"
Tuổi Mão, Thân thọ phúc song toàn
Tốn cung Sát Tử đồng ban
"Đế Huề Bảo Kiếm" võ quyền kinh uy
Ai người "Lộ thượng mai thi"
Vì sao Liêm Sát, đồng quy Sửu, Mùi
Ai người trận địa thây vùi
Vì sao Kình Sát đứng ngồi Ngọ cung
Sát tuyệt địa Đà Dương xung chiếu
Thầy Nhan Hồi chết yểu, thương ôi
Nữ mệnh Sát, Ngọ Tý ngồi
Ngộ Riêu, Kiếp phải lệ rơi vì tình.
Phá Quân
Phá-Quân thuộc Thủy, Hao tinh
Hào hùng, phúc hậu gian manh tuyệt vời
Tuổi Canh, Quý Phá ngồi Ngọ Tý
An Mệnh viên: "Miếu vị anh tinh"
Anh hùng cái thế, tranh vanh
Cùng Vũ Tỵ, Hợi "đông thành tây tan"
Phải chờ tới vãn niên mới khá
Đồng, Khốc, Hư: "tịnh thủ xưng hùng"
Giang sơn một kiếm vẫy vùng
Miệng cười ròn rã nhưng lòng vẫn nghi
Đã táo bạo, còn ưa nịnh, bốc
Phá, Tham phùng Mã Lộc dâm, lang
Hỏa Hao ngộ Phá tai ương
Phá-Quân Linh, Hỏa muôn phương dãi dầu
Kình đồng Phá, lại triều Phụ Bật
Mão Dậu cung, là đất nghịch thường
Hoàng Sào làm loạn trào cương
Nhân dân đồ thán, thực phường bất nhân
Trai bất nhân, Phá-quân Thìn Tuất
Ngộ Khoa, Tuần phản ác vi lương
Tuổi Mậu Quý, lắm bạc vàng
Hoạnh tài, bộc phát giầu sang một đời
Văn Xương
Sao Xương, Khúc chủ văn chương
Đồng lâm Thìn, Tuất chi hương tuyệt vợi
"Miêu nhi bất tú" Nhan Hồi
Văn-Xương ngộ Kỵ, uổng đời tài hoa
Văn Khúc
Văn-khúc chủ văn chương thuộc thủy
Mệnh, Thân lâm nhị mộ Tuất Thìn
Phùng Khoa, Tuế với Hóa Quyền
Văn chương, hùng biện hoàn toàn giỏi giang
Vì cùng Vũ-khúc đồng hương
Tướng kiêm văn võ, vinh quang một đời
Tả Phụ
Tả-phụ là sao phù trì
Tả, Hữu thủ Mệnh, là đi phương ngoài
Giáp Tả Hữu, Thân phù đúng cách
Ngôi công hầu, hiển hách một đời
Mộ cung Tả, Hữu đồng lai
Thăng quan tiến chức, miếu đài viển vinh.
Hữu Bật
Phụ-Bật ngộ Thái-Âm nhân
Chuyên làm bà đỡ, giúp đàn sơ sinh
Phụ Bật, Khúc, Tướng đồng viên
Thầy lang, Bác-sĩ danh truyền lương y.
Thiên Khôi và Thiên Việt
Khôi, Lương Thanh Việt, Cái Hồng
Trai cận cửu trùng, gái tác cung phi
Hồng, Khôi, Xương, Tấu đề huề
Sân rồng, bảng hổ danh đề một hai
Khoa, Quyền, Lộc, Mã Việt, Khôi.
Công thành danh toại, một đời hiển vinh.
Thiên Mã
Mệnh cung trung, đóng sao Thiên-Mã
Tại Dần cung, gọi Mã Trạng-Nguyên
Tể Tướng Mã, Thân cung an
Ô Truy Ngự-Sử, Hợi nhân Mã lâm
Phù thi Mã, Hình xâm Mã vị
Xích thố Mã, cung Tỵ Mã ngồi
Mã Đà, triết túc quê rồi
"Giao trì Lộc Mã" tiền tài đầy kho.
Lộc Tồn
Mệnh có Lộc, ngộ Phá Không
Cát vượng phản biến vì hung tức thời
"Uyên ương Lộc hội" tốt vời
Công danh hiển hách một đời giầu sang
Song Lộc thủ Mệnh quyền chuyên
Lộc Đảo, Mã Đảo hết phiền lại lo.
Kình Dương
Kinh cư Thìn, Tuất Sửu, Mùi
Tam phượng cát chiếu, một đời giầu sang
Mệnh viên Ngọ, tọa Kình Dương
"Mã đầu đới kiếm" biên cương trị vì.
Đà La
Đà-la bản tính chẳng lành
Dần, Thân, Tỵ Hợi đồng hành vượng cung
Đà-la hãm địa tối hung
Cuộc đời cơ cực, bình bồng độ thân
Hỏa Tinh
Hỏa-tinh lửa đốt tứ bề
Tỵ, Ngọ, Dần, Mão đề huề vượng cung
Hỏa cư Hợi, Ngộ Tuyệt đồng
Tham, Hình củng hội, lẫy lừng uy danh
Hỏa-Tinh Điền-trạch độc hành
Cửa nhà tiền bạc tan tành gió.bay
Linh Tinh
Linh tinh là điện lửa trời
Tý, Ngọ miếu địa, hãm thời Dậu, Thân
Linh-Tinh Thiên-Việt ở gần
Gió mưa sấm sét phải cần tránh xa
Kẻo mà sét đánh oan gia.
Hóa Lộc
Hóa-Lộc thủ Mệnh cung
Tý, Ngọ, Mão, Dậu là vùng tốt tươi
Lộc-Tồn, Hóa-Lộc sánh vai
Chẳng bằng củng chiếu, đông đoài song phương
Hóa Quyền
Hóa-quyền chủ thế anh hùng
Dần Mão Tý Hợi là cung miếu đường
Quyền hội Thất-sát Cự-môn
Công danh hiển hách, quyền tôn nhất Triều.
Hóa Khoa
Hóa-khoa chủ văn chương thi cử
Hợi Dần Thân Tỵ thủ Mệnh cung
Công danh, khoa bảng hanh thông
Khoa tinh, vị tướng giải hung tuyệt vời
Hóa Kỵ
Hóa-kỵ chính sao Kế-đô
Âm trầm, cơ sảo mưu đồ cạnh tranh
Hóa-Kỵ hội với Quyền tinh
Đường mây nhờ ở cơ mưu tuyệt vời
Hợi, Tý, Dần, Mão Dậu, Thân
Sáu cung vượng địa, Kỵ tinh an bài.
Thiên Không
Hạng Võ anh hùng ngộ Thiên-Không táng quốc
Thạch Sùng hào phú, phùng Địa-Kiếp vong gia
Thiên-Không hội với Đào-Hoa
Cầm, Kỳ, Thi, Họa tài ba tuyệt vời
Cơ mưu quyền biến hơn người
Ngàn năm: mệnh bạc là đời tài hoa
Thiên Riêu
Hình, Riêu phân gái long đong
Ví chẳng lộn chồng, ắt cũng phản phu.
Thiên-Riêu, Long, Phượng một nhà
Thiên hương quốc sắc, nõn nà giai nhân.
Thiên-Khốc và Thiên-Hư
Khốc, Hư Tý Ngọ cung Mệnh thủ
Hội Mã Hình nghiệp võ hiển dương
Khốc Hư hội với Kinh Dương
Hữu sinh vô dưỡng, ngộ Tang mất người
Hậu thành, tiên trở trong đời
Bởi sao Hư Khốc cùng ngồi Mệnh-viên.
Hồng-Loan
Sao Hồng-Loan hội cùng Tử, Phù
Gái chính chuyên, thục nữ ngàn xưa.
Hồng-Loan ngộ Kỵ cung Phu
Gái ngồi quạt mồ, lòng dạ xốn xao
Hồng Cơ Tấu Vũ, Hỷ, Đào
Câu ca, điệu vũ nghề nào cũng tinh
Thiên-Hỷ
Sao Thiên Hỷ, chủ mừng vui
Thiên-Hỷ thủ mệnh, miệng cười có duyên
Hỷ-Thần, Thiên-Hỷ, Hồng-Loan
Ba sao đem lại hân hoan trong đời
Tam Thai và Bát tọa
Giáp Bát-Tọa, giáp Tam-Thai
Thiếu niên sớm dự lâu đài nghênh ngang
Hỏa, Linh, Kình, Tấu đồng ban
Tung hoành bút phượng trong làng văn nhân
Bút hoa vùng vẫy phòng văn
Tài riêng thiên phú người Tân, Tốn Đoài
Càn Hợi ngọc bút vẽ vời
Mão Dậu bùa ấn, bút người Phát sư.
Long-Trì, Phượng-Các
Long-Trì, Phượng-các hai sao
Cung Mùi, cung Sửu dòng vao vượng thay
Riêu, Hỷ Khốc, "rồng mây gặp hội"
Chốn thi đinh danh vọi vọi cao
Cái cùng Long Phượng Hồng Đào
Chủ quyền nội tướng, anh hào hàng hai
Phượng Long giáp Mệnh có tài
Trước sau vinh hiển ra ngoài nổi danh
Ân-Quang và Thiên Quý
Mệnh Thiên-Quý chẳng phùng Không sứ
Hội Khoa Xương sĩ tử nể vì
Thông minh tài học ai bì
Lọng vàng ngựa tía cờ khoe rợp trời.
Cô Thần và Quả Tú
Cô Thần, Quả Tú hai sao
Thiết thân chẳng có bạn nào với ai
Tử-Tức mà ngộ cả hai
Gian truân vất vả về hai nhi sinh
Quả Tú mà ngộ Thiên-Hình
Tuổi già đầu bạc một mình không con
Chữ rằng: "Họa phúc vô môn"
Tam phương cát chiếu, có con muộn mằn.
Phi-Liêm
Phi-Liêm ngộ Hỏa, Linh, Hình, Việt
Thành đạn tên bắt giết, hại thay
Phi-Liêm hội Mã, Hổ bay
Công thành danh toại, rồng mây gặp thời.
Thai-Phụ Phong-Cáo
Thai-Phụ, Phong-Cáo, Khoa tỉnh ngộ
Bước công danh rộng mở đường mây
Cát tinh hội với Cáo Thai
Công danh thẳng tiến, lâu đài nghênh ngang
Hoa-Cái
Khôi, Lương, Thanh, Việt, Cái, Hồng
Trai cận cửu trùng, gái tác cung phi
Hóa-Quyền Hoa-Cái hội tề
Cùng Hổ, Long, Phượng quyền về tay ta
Đại Tiểu Hao
Song Hao thuộc Thủy đại hà
Mão Dậu thủ mệnh, chính là miếu cung
Cách là "Chúng Thủy Triều Đông"
Phát tài, phát lộc vào không bến bờ
Tham-lang ngộ Hao một nhà
Cầm vàng nhịn đói, lệ hòa miếng ăn.
Thiên-Đức
Thiên Nguyệt-đức ngộ Đào Hồng
Trai lấy vợ đẹp, gái chồng giầu sang
Thiên Nguyệt-đức tọa chiếu phương
Cùng là Quan Phúc trừ hung cứu người
Thanh-Long
Thanh-Long, Mệnh Phúc, Thân tọa thủ
Tại Thìn cung, mạnh Thổ, Âm Nam
Hóa-Kỵ chiếu hợp tam phương
Tuổi Đinh, Tuổi Kỷ toại đường công danh
PHÚ ĐOÁN MẠNH THÂN CUNG
Ngôi Tử-vi lâm vào chốn hãm
Quyền cứu nguy thiểu giảm vô uy
Phủ phùng Không xứ tài suy
Chung thân nan bảo tư cơ lưu truyền
Phượng Long Mão Dậu đôi miền
Vượng thì kim bảng ghi tên ngao đầu
Mấy người bất hiển công danh
Chỉ vì Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi
Quý Ân Mùi Sửu hạn lưu
Đường mây nhẹ bước danh cao bảng rồng
Ân Khôi Quý Việt Cái Hồng
Nam cận cửu trùng nữ tác cung phi
Công danh đợi tuổi tác cao
Giáp Liêm giáp Sát một hào không sai
Giáp Bát-tọa giám Tam-thai
Thiếu niên đã dự các đài nghênh ngang
Giáp Long giáp Phượng mấy ai
Trước sau vinh hiển ra ngoài nổi danh
Những người nên thiếu công danh
Hồng-Loan, Bát-tọa ở mình không sai
Hồng Cơ Tẩu Vũ Hỷ Đào
Gái nghề ca xướng luận vào Mạnh-viên
Hồng-Loan ngộ Kiếp Không lâm thủ
Xá bàn chi bần lũ yểu vong
Tham Liêm Tỵ Hợi không bàn
Chàng Tiêu thuở trước tân toan ngục hình
Thiên Nguyệt-đức Giải-thần tàng
Cùng là Quan Phúc một làng trừ hung
Luận xem phú quý mấy người
Mạnh vô chính diệu trong ngoài tam Không.
Tọa Quý hướng Quý chẳng phùng Không xứ
Gặp Khoa thời nhất cử thành danh
Ấn mang vị liệt công hầu
Sao lành Tướng Cáo hội chầu Mạnh-viên
Đào Hồng Sát Phá Tham Liêm
Lâm vào nữ phái chỉ hiềm sát phu
Tang Đào ở Mạnh cung sau trước
Gái đã đành lỡ bước cầu ô
Vận lưu đại tiểu trùng phùng
Cát thời thịnh vượng, hung thời chuân chuyên
Dương Đà xâm chiếm Mạnh-viên
Nói năng loạn thuyết những phường điêu ngoa
Lỗ tai điếc lác lo phiền
Dương Đà Không Kiếp Cự miền Mạnh-viên
Miệng ấp úng nói không ra tiếng
Vì Tuế Đà Riêu Cái Mạnh cung
Kỵ tinh Xương Khúc đồng cung
Nhan-Hồi yểu tử nghĩ thương anh tài
Cơ Loan Hồng Phúc Mạnh trung
Cửi canh kim chỉ vá may thêu thùa
Trai bất nhân Phá-quân Thìn Tuất
Gái bạc tình Tham Sát nhân cung
PHU ĐOÁN HUYNH ĐỆ CUNG
Cung Huynh Đệ Triệt Tuần lâm thủ
Chim đầu đàn vỗ cánh bay cao
Kiếp Không hai gã khá ngừa
Lâm vào Huynh-đệ đơn sơ một mình
Phát phùng Hình Kỵ Huynh hương
Anh em bất thuận nhiều đường tương tranh.
PHÚ ĐOÁN THÊ CUNG
Vợ chồng viễn phối tha phương
Đào Hồng đối chiếu vào làng Thiên-di
Thiên Nguyệt Đức ngộ Đào Hồng
Trai lấy vợ đẹp gái lành chồng sang
Vợ về của có muôn vàn
Ân-quang Nguyệt-đức, Thái-dương Mã đồng
Ai mà Thiên tướng Đào Hồng
Ai mà Thiên mã Lộc phùng Thanh Long
Sao Thai mà ngộ Đào Hoa
Tiền dâm hậu thú mới ra vợ chồng
Hoa-Cái Phượng-các Đào Hồng
Trai toan nể vợ trong lòng khôn khuây
Phu cung Hóa kỵ một mình
Tơ tình chưa dứt mối tình đã xui
Thiên Riêu bất chính cả đôi
Liêm-Trinh viễn phối ở nơi bần hàn
Khúc Xương ấy gái chẳng lành
Vườn xuân ong bướm hiệp tình thung thăng.
Phụ Bật hội Thái-Âm nhàn
Gái làm bà đỡ, cứu đàn nhi sinh
Hình Riêu số gái long đong
Ví chẳng lộn chồng ắt cũng phản phu
Đào Riêu số gái ai hay
Chồng ra khỏi cửa giắt tay trai vào
Triệt Tuần ngộ Mã Hình, Thê vị
Vợ bỏ chồng đào tỵ tha hương
Đào tinh mọc ở Nô cung
Gái ngoan mắc tiếng bất trung cùng chồng
Vợ chồng nay giận mai hờn
Phục-binh Hóa-kỵ nơi tòa Phu Thê
PHÚ ĐOÁN TÀI BẠCH CUNG
Lộc-tồn Thiên-Mã cùng Gia
Có người buôn một bán ba nên giầu
Song Hao Hội tại Phúc Tài
Tán nhiều tụ ít mấy ai nên giầu
Ấy ai phúc lộc đề đa
Vũ Lộc Thiên-mã chiếu hòa Tài cung
Ấy ai danh lợi thong dong
Bởi vì Tả Hữu hội đồng Đế tinh
Ấy ai địch quốc tiếng đồn
Bởi vì Thiên-mã hội cùng Tràng-sinh
Tứ-sát đóng ở Hợi cung
Khi hết lại có khi vơi đầy
Phá-quân đóng ở Tài cung
Đồng tiền lên xuống lựa dòng nước xuôi
Số ai đầm ấm thanh nhàn
Vì chưng Tả Hữu hội ba Khoa Quyền
Nghèo hèn bởi tại Kiếp Không
Dương Đà Linh Hỏa long đong bôn trì
Song Hao lâm đến Phúc Tài
Nhọc lòng uổng phí công ai giữ tiền
PHÚ ĐOÁN TẬT ÁCH CUNG
Triệt Tuần đóng tại Ách cung
Tai nào cũng khỏi nạn nào cũng qua
Hình Dương Hoa-cái ngộ Đà
Hạn hành năm ấy đậu hoa phải phòng
Hỏa Linh Trì Mộc chiếu soi
Lánh mình lửa cháy nước sôi phải phòng
Kỵ Đà Tấu Tuế một đoàn
Đêm ngày chầu chực cửa quan mỏi mòn
Bệnh-phù ngộ Thiên-hình tai vạ
Ất có người chịu họa phong sương
Bật đởm tri túc rất hung
Bởi vì Tật ách Bệnh phùng Kiếp Cơ
Linh Phù Sát Phá hạn cao
Vua Văn thuở trước phải vào ngục trung
Ách cung Bạch-hổ huyết hư
Ách cung Thiên-Khốc Cư Hư phong đàm
Dương Đà Hình hội mục tý
Âm Dương Riêu Kỵ cho nên mắt lòa
Tham-lang Hỏa-kỵ hạn phùng
Cự-môn Hỏa-kỵ phải phòng giếng ao
Kiếp Không Hình Việt xấu sao
Hỏa Linh Hình Việt gươm đao búa trời
PHÚ ĐOÁN THIÊN DI CUNG
Thiên-di ấy Mã Binh ngồi
Đánh đông dẹp bắc pha phôi cõi ngoài
Quan cung hỷ ngộ Hồng Đào
Thiên-di tối kỵ Kiếp Không lâm vào
Long đong đông tẩu tây trì
Chẳng qua Thiên-mã Thiên-di hãm nhà
Chơi bời du thủy du san
Thiên-di ngộ Mã gặp chàng Đà-La
Thiên-di Nhật Nguyệt giáp đôi
Nhất sinh xuất ngoại nhiều nơi thế thần
Thiên-di Hoa-cái Hỷ-Thần
Thiên-di Phụ Bật quý nhân yêu vì
Thiên-di Hóa-kỵ ra ngoài
Kẻ thù người oán chẳng ai gần mình
Tướng-quân ngộ Triệt trước miền
Ra đường gặp giặc mình liền tan thây
Thiên-di Địa-kiếp Cơ Liêm
Hồn quy phách lạc cánh tiên lánh phàm
PHÚ ĐOÁN NÔ BỘC CUNG
Con em xạ khứ xạ hoàn
Bởi sao Nhật Nguyệt hãm ngồi Nô cung
Hình Kỵ Tả Hữu hội cung
Gia trung rộn rịp ung dung tớ thầy.
PHÚ ĐOÁN QUAN LỘC CUNG
Mộ phùng Tả Hữu đồng lai
Thăng quan tiến chức miếu đài hiển vinh
Đồng Lương hội chiếu Dần Thân
Khi xưa bạch thủ mà nay sang giầu
Khốc Hư Tý Ngọ đồng trì.
Thiên-Hình Dần Mão chiếu vì Quan cung
Lộc phùng Tử Mã nhất ban
Phong vân tế hội Mã Long Hỷ đồng
Khôi Lương Cái Việt Tấu Hồng
Nam cận cửu trùng, nữ tác cung phi.
PHÚ ĐOÁN ĐIỀN TRẠCH CUNG
Triệt Tuần đóng ở cung Điền
Tư cơ cha mẹ không truyền đến cho
Phá-quân sao ấy tán tài
Lâm trạch bán hết lưu lai tổ điền
Tang-môn ngộ Hỏa xấu sao
Chiếu soi phương nào, chốn ấy hỏa tai
Ân-quang phùng Đào Hồng Điền-trạch
Ấy cô dì lưu lại ruộng nương
Long-trì Địa-kiếp đồng hương
Giếng bồi ao lấp ở bên nhà này
Cơ Lương tương hội Tuất Thìn
Mộc lâm tổ nghiệp đến hồi lai sinh
Khốc Hư Tang hội chẳng lành
Tổn người hại của chẳng yên được nào.
PHÚ ĐOÁN PHỤ MẪU CUNG
Âm Dương Tuần Triệt tại tiền
Mẹ cha ắt đã quy tiên thuở nào
Phụ-mẫu cung hội Thiên-Lương
Mẹ cha đồng hưởng thọ trường an vui.
PHÚ ĐOÁN TỬ TỨC CUNG
Tử cung ngộ Kiếp Không gia
Nuôi con chẳng mát đã ba bốn lần
Khốc Hư đồng ngộ Dưỡng tinh
Sinh nhiều nuôi ít gian chuân thuở nào
Hiếm hoi bởi tại Hình Hao
Quý tinh trước cửa một hào đông con
Thiên-hình Sát Hổ Tử cung
Đến già chẳng thấy tay bồng tay mang
Sinh con những giống ngẩn ngơ
Tử cung xung chiếu Sát Đà Kiếp Không
Tử cung Không Kiếp trùng giao
Bệnh phùng băng huyết thay bào phù hoa
Tới Phật đường cầu tự mới sinh
Tràng-sinh Đế-vương đa nhân
Giáp chiếu Nhật Nguyệt có lần sinh đôi
Đế-vượng ngộ Thai Khôi cùng Tướng
Có dị bào hai ngả anh em
Sinh con số hiếm rõ ràng
Bởi sao Đà Kỵ lâm hàng Tử cung
Hổ Lang Không Kiếp tang giao
Sinh con chẳng mát đã ba bốn lần
Sinh con Quyền Lộc hiển vinh
Sinh con Khôi Việt văn tinh đỗ đầu
Sinh con Long Phượng sang giầu
Khúc Xương chiếu giáp thập hầu tặng phong
Hỷ-thần hội với Phúc tinh
Dương danh quý tử hiển vinh sang giầu
Tử cung Thai-tướng Phục-binh
Vợ chồng ắt hẳn tư tinh thuở nào
Cô-thần Quả-tú hai sao
Gian chuân vất vả về hài nhi sinh
PHÚ ĐOÁN PHÚC ĐỨC CUNG
Phá Tý Ngọ, trưởng phiêu lưu
Thủy Kim hợp cách, Sửu Mùi Khúc Xương
Dần Thân Không Kiếp cơ hàn
Cự Cơ Mão Dậu phúc càng thêm hay.
Thìn Tuất Tham Vũ cũng hay
Chớ ai Tỵ Hợi phúc bầy Không vong
Thất-sát tròn thẳng mà dài
Tham-Lang Phượng-các là loài chim muông
Liêm-Trinh ngộ Hỏa tiêm đầu
Thiên-Lương có chẩm gối đầu thảnh thơi
Hai quan Tướng Phá cùng ngồi
Tướng trong là giáp binh ngoài là chiêng
Tổ sớm Tử Phủ một miền
Những sinh có nước tả truyền hữu lai
Phòng văn đồ duệ án tiền.
Tân nghiên tân bút Chấn Canh cổ kỳ
Cò Hóa-lộc bảng Hóa-khoa
Ngựa đi Thiên-mã, voi quỳ Kình-Dương
Văn-Khôi Vũ Việt thịnh đường
Tả Long hữu Hổ thuận tường phân kim
Kiếp Không Tuần Triệt gia liên
Có ông mất mả ở miền quan sơn
Tang-môn Cô-quả Đào Hồng
Họ hàng có kẻ góa chồng cô đơn
Khốc Hư Cơ Cự muôn vàn
Đường đi lẩn quất Vũ nhàn Triệt không
Đà tiền ngộ Mã Tương xung
Trai bị hình ngục gái phòng nghiệt thương
Rể cây khôn tránh khỏi đường
Phá liêm Mão Dậu Điếu Tang một tòa
Lộc nhàn Mã ngộ Kiếp không
Long phi Hổ tấu một dòng phiêu lưu
Lộ bàng Triệt Ngộ Phá quân
Đà la diệu táng mộ phần đảo thi
Mã Đà gái lấy chồng xa
Thiên-cơ Hư Nhuận bệnh ra điên cuồng
Thái-dương tam địa mộ phần
Thái-âm tam tại âm nhân rỏ ràng
Ngộ hãm tứ tại tổ đường
Thiên-đồng tam địa thời phong bốn đời
Vũ-khúc Thiên-tướng năm đời
Cơ Tham thứ sáu bảy đời Cự Lương
Tả phủ thượng tổ ngôi dương
Hoa-Cái mộ mới cũng ngôi Hỷ-thần.
(Dẫn theo blog Trần Nhật Thành)
Thứ Hai, 24 tháng 10, 2022
CẦU LÀNG QUÊ TÔI
Cầu Làng quê tôi – một thời để nhớ.
Quê tôi xã Thanh Phong có con hói chảy gần vòng quanh xã, bốn phía tiếp giáp các xã Thanh Hưng, Thanh Tường, Xuân Sơn, Minh Sơn, Nhân Sơn đều phải lội hoặc đi qua những cây cầu khỉ, cầu gỗ như Cầu Bào, cầu Cần, cầu Vinh Ân... Cầu Làng là một trong những cái cầu đơn sơ như thế. Cầu Làng bắc qua con hói chảy qua làng Hòa Mỹ chia đôi làng này thành 2 nửa, Phong Hòa và Phong Trà, nằm trên đường liên xã liên huyện từ Thanh Đồng lên Minh Sơn, nay gọi là Quốc lộ 7B.
Qua thăng trầm của lịch sử, cầu đã được tu sửa làm mới nhiều lần. Ngày xưa cầu làm bằng những bó tre hai ba cây bắc qua hói, có dàn tay vịn. Trâu bò không thể đi qua mà chỉ có người mới đi được. Trẻ con những đứa yếu bóng vía cũng không dàm bò qua bởi hói sâu, nhìn xuống hơi bị ngợp. Bên cầu có mấy cây đa rợp bóng nay thì đã chết vì già cỗi. Tôi có đứa cháu là Trần Văn Mão gọi tôi bằng cậu, nay cũng đã làm cán bộ tỉnh, hồi ấy mới khoảng 7 tuổi mà vẫn dám bò qua cầu một mình đi bộ lên Phong Diên thăm ông bà ngoại và nhờ cậu cắt tóc, bởi vùng ấy, thời ấy không có thợ cắt tóc như bây giờ. Mà cậu thì vốn đa năng, không giỏi nhưng cấy chi cũng biết. Ông bà khen, các cậu, dì đều khen nức nở: thằng ni gan thật.
Năm 1969, sau khi Bác Hồ mất, với tinh thần biến đau thương thành hành động cách mạng, huyện Thanh Chương cũng như xã Thanh Phong đều huy động thanh niên đi làm các công trình thủy lợi lớn phục vụ quốc kế dân sinh. Chúng tôi được huy động đi xây công trình thủy lợi đập Cầu Cau ở Thanh An, nay là hồ Đảo Chè, một thắng cảnh đẹp đang thu hút nhiều khách du lịch đến từ các vùng miền trong cả nước. Tiếp đà cách mạng tiến công, xã Thanh Phong cũng mở công trình xây dựng đập Cầu Làng, bằng cách đào một khúc hói mới uốn dòng chảy và làm cầu bê tông kiên cố rộng khoảng 2,5m, chặn dòng chảy của con hói cũ, phá cầu khỉ. Từ đây quê nhà như bước sang trang mới. Cuộc sống, sự đi lại của người dân quê tôi đã được đổi đời. Đập nước dâng cao gần chục mét, nước trong xanh 4 mùa đủ tưới cho cả mấy cánh đồng làng tốt tươi màu mỡ. Người xe đi lại thuận tiện, trâu bò qua lại dễ dàng, đặc biệt các em nhỏ tới trường học không phải bò qua cầu tre lắt lẻo hàng ngày nữa. Tôi nhớ anh cán bộ kỹ thuật của phòng Thủy lợi huyện về trực tiếp chỉ đạo thiết kế và thi công tên là Hân, người mảnh khảnh, da hơi đen, có cặp mắt sáng và đặc biệt rất nhiệt tình, trách nhiệm và sâu sát. Anh quê đâu thì tôi cũng không rõ. Ngày nay ai đi qua Cầu Làng nhìn xuống thấy một khúc con hói cũ bị ngăn dòng vẫn còn dấu tích. Sau đập Cầu Làng, anh Hân còn giúp xã tôi xây đập Cơn Ớt để phục vụ tưới tiêu cho đồng Rai Rái và mấy cánh đồng khác, mà trước đây phụ thuộc nước nông giang lấy từ Ba ra Đô Lương. Dân quê tôi vẫn không bao giờ quên hình ảnh thân thương và tình cảm, sự đóng góp của anh đối với xã nhà.
Cũng nhờ có cầu, có đập thủy lợi mà cuộc sống của người dân quê tôi ngày càng khởi sắc, không còn là vùng đất “tứ tắc” như ngày xưa nữa. Mỗi lần đi qua cầu thấy các chị các cô gái dưới cầu giặt áo, gội đầu hong tóc, cười nói râm ran, các em nhỏ nô đùa bơi lội trên dòng nước mát cảm thấy quê hương thật thanh bình yên ả. Mặc dù thời chiến tranh, lại thời kỳ làm ăn tập thể nên kinh tế vẫn nhiều thiếu thốn.
Bước sang thế kỷ 21 con đường liên xã xưa được quy hoạch và nâng cấp lên thành Quôc lộ 7B nối đường Quốc lộ 46 chạy qua xã nhà, lên Minh Sơn, Tân Sơn băng qua Quốc lộ 7A chạy ra Yên Thành, Diễn Châu. Đây là dự án lớn của nhà nước. Đường được nắn lại và mở rộng, Cầu Làng bằng bê tông xưa cũ được thay bằng cây cầu hiện đại bề thế lớn hơn rất nhiều, 4 làn thì chưa được nhưng 2 làn thì ô tô chạy thoải mái. Đường được đắp cao, cầu cũng xây cao nên không còn bị lũ lụt ngập như trước nữa. Mỗi khi về quê, trước đây đường khúc khuỷu lầy lội, nay xe cứ chạy bon bon một mạch về tận nhà thật là biết bao sung sướng.
Nhớ lời bài hát của Giáp Văn Thạch phổ thơ Đỗ Trung Quân: “Quê hương là chùm khế ngọt, cho con trèo hái mỗi ngày” sao mà nồng nàn da diết. Con em Thanh Phong dẫu học tập, công tác hay làm ăn khắp 4 phương trời vẫn luôn nhớ về quê hương, nơi quê cha đất tổ với những kỷ niệm đẹp đẽ thân thương và tình đất tình người sâu nặng./.
Viết theo lời hẹn với bạn Trịnh Xuân Ngũ khi được đọc bài thơ của bạn ấy trên trang “Quê Nhà Thanh Phong”. Cảm ơn bạn Ngũ và các bạn rất nhiều!
TP Vinh 2/4/2022
Quang Lê tức Lê Quang Đạo. Trước nhà ở xóm 6B nay là xóm 5, dưới chân rú Bạc, phía trong Cây Sui lịch sử.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)