Phương pháp chữa bệnh phối hợp
giữa y học truyền thống, khí công và chu dịch.
Trước
hết, liệu pháp tượng số (LPTS) là một phương pháp điều trị bằng khí công do
người bệnh chủ động điều chỉnh lại trường khí của mình thông qua nhẩm đọc nhóm
số thích hợp. Tuy nhiên nhóm số này phải được thiết lập, theo dõi và điều
chỉnh trên cơ sở biện chứng luận trị bởi một thầy thuốc Đông y có một số kiến
thức nhất định về Chu dịch.
Tăng cường lưu thông khí huyết.
Theo
y học cổ truyền “thống tất bất thông, thông tất bất
thống”. Những triệu chứng đau, nhức, tê mõi của bệnh tật là
do sự ứ trệ khí huyết ở một điểm hoặc một bộ phận tương ứng của cơ thể.
Ngược lại, nếu ta có thể làm cho khí huyết thông lợi thì đau, mõi sẽ hết và
bệnh tật sẽ không còn. Do đó một cơ chế quan trọng của LPTS là kích hoạt
để tăng cường lưu thông khí huyết ở tạng, phủ hoặc kinh lạc có dấu hiệu bệnh
tật. Trên thực tế, qua quan sát hiệu ứng khí hóa của LPTS, những người có
khí cảm tốt có thể nhận thấy khi thông tin về một tượng số được não tiếp nhận
liên tục và rõ ràng, thì tạng phủ và kinh khí tương ứng sẽ được kích hoạt và
lan tỏa theo chiều đường kinh, hoặc sang các tổ chức có quan hệ biểu lý hoặc
quan hệ tương sinh với nó.
Ví dụ: Ở một trường hợp ho, viêm họng do cảm nhiễm phong hàn,
tượng số 20 đã hoạt hóa khí cơ của Phế và đường kinh Phế để
thải trừ phong hàn theo đường kinh ra ngoài.
Bản đồ tương sinh - tương khắc của ngũ hành
Vận dụng nguyên tắc bổ tả để cân bằng khí hoá.
Đông
y cho rằng bệnh tật là sự chênh lệch thái hóa giữa hai yếu tố âm và dương trong
cơ thể. LPTS vận dụng nguyên tắc bổ hư, tả thực, tức thêm vào chỗ hư yếu
và thải trừ chỗ dư ra để tạo cân bằng khí hóa giữa âm và dương, giữa ngũ tạng,
lục phủ. Việc bổ tả thường dựa vào quan hệ sinh khắc, chế hóa giữa năm
hành. Vòng tương sinh bao gồm Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ,
Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy. Vòng tương khắc bao gồm Thủy khắc Hỏa, Hỏa
khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ và Thổ khắc Thủy. Đối với những nhóm
số có hơn hai tượng số, hiệu ứng khí hoá sẽ chuyển động theo hướng tương sinh,
và khí hoặc tổ chức liên quan đến tượng số xuất hiện sau sẽ nhận được khí của
tượng số xuất hiện trước chuyển đến. Quan hệ này có hai ý nghĩa.
Đối với tạng hoặc khí của tượng số sau là quan hệ sinh vì được
thêm vào. Tuy nhiên đối với tạng hoặc khí của tượng số trước được xem là
quan hệ khắc vì bị tiết bớt khí đi.
Ví dụ: Nhóm số 260 có thứ tự tương sinh từ Phế Kim 2
sinh Thận Thủy 6. Số 2 xuất hiện trước số 6 sẽ gây ra hiệu ứng khí ở Phế
được kích hoạt và điều chuyển sang cho thận. Ở đây Thận được Phế sinh
nhưng đồng thời Phế bị tiết khí bớt sang cho Thận nên xem là Phế bị khắc.
Nói cách khác, việc sắp xếp tượng số trong một nhóm số luôn theo thứ tự tương
sinh và tác dụng sinh hay khắc sẽ tùy thuộc vào tượng số đó đứng trước (bị
khắc) hay sau (được sinh). Ngoài ra, đối với những bệnh có thực tà, việc tả
thực chủ yếu cần dựa vào tính hoạt hóa của khí hoặc tổ chức
đó.
Ví dụ: trường hợp đau mắt đỏ, tượng số 3000 được
thiết lập với ý nghĩa hoạt hóa cục bộ để thải tà nhiệt ra khỏi mắt.
Tùy
theo tính chất hoặc hình tượng mà một bộ phận của cơ thể hoặc một triệu chứng
bệnh tật được quy loại vào một hành hoặc một quái.
Tên quái
|
Số quái
|
Ngũ hành
|
Thiên nhiên
|
Cơ thể
|
Bệnh tật
|
Càn
|
1
|
Kim
(Dương)
|
Trời
|
Đầu.
Đại tràng. Xương. Mạch Đốc
|
Bệnh tật
ở xương, vùng đầu mặt, vùng ruột già
|
Đoài
|
2
|
Kim
(Âm)
|
Ao, đầm
|
Phổi.
Miệng. Cuống họng. Khí quản. Hậu môn
|
Bệnh tật
ở lợi, răng, miệng. Bệnh thuộc phổi, ho, suyễn, viêm khí quản.
Bệnh ngoài da
|
Ly
|
3
|
Hỏa
|
Mặt trời,
Lửa
|
Tâm
bào. Tim. Mắt. Vú. Ruột non. Tam tiêu.
Hồng cầu
|
Các bệnh
về mắt, tim, vú, bị bỏng
|
Chấn
|
4
|
Mộc (Âm)
|
Sấm
|
Gan.
Gân. Chân
|
Bệnh tật
ở gan, gân, chân. Bệnh thiếu máu, bệnh đột phát
|
Tốn
|
5
|
Mộc (Dương)
|
Gió
|
Túi
mật. Bắp đùi. Bắp tay
|
Bệnh ở
túi mật, bắp đùi, bắp tay. Các chứng liên quan đến trúng phong, trúng
gió, phong hàn, phong thấp
|
Khảm
|
6
|
Thủy
|
Nước
|
Thận.
Bàng quang. Niệu đạo. Huyết dịch. Tai
|
Những
chứng bệnh về tiết niệu, sinh dục, đau lưng, bệnh về tai
|
Cấn
|
7
|
Thổ
(Dương)
|
Núi
|
Dạ
dày. Cánh tay. Mũi, Sườn. Lưng. Gót chân, Đầu
gối. Các đốt xương
|
Bệnh tật
liên quan đến tỳ-vị. Bệnh ở sườn, vai, lưng, đầu gối, khớp. Những
chứng sưng, những chứng kết tụ. Sỏi.
|
Khôn
|
8
|
Thổ (Âm)
|
Đất
|
Bụng.
Lá lách. Cơ bắp. Phần mỡ
|
Bệnh về
tiêu hóa. Bệnh về cơ bắp, về mỡ. Các chứng hàn, thấp.
|
· Cách lập các nhóm
số. Tương tự như việc lập ra các phương huyệt trong châm cứu, các
nhóm số được kết cấu căn cứ vào biện chứng luận trị, có thể dựa theo nhiều cách
khác nhau.
Lập số theo tượng bát quái. Tùy theo vị trí hoặc
triệu chứng bệnh ứng với quái tượng nào để lập số.
Ví dụ: Một trường hợp hàn điện bị tia lửa bắn vào mắt làm mắt
bị xót, bị đau. Tượng số được lập là 003. Số 3 là tượng
số của mắt, hai số 0 ở trước là thiên về lạnh mát để chống lại viêm, rát thuộc
Hỏa (Thủy khắc Hỏa).
Lập số theo lý luận tạng tượng. Tạng tượng là một học
thuyết cơ bản của y học cổ truyền. Do đó lý luận về tạng tượng là căn cứ
quan trọng nhất để lập số. Chẳng hạn trong khi hiểu biết thông thường cho
rằng Phế chủ về hô hấp, nhưng lý thuyết về tạng tượng của Đông y còn cho thấy
Phế chủ da và lông hoặc Phế điều thông thủy đạo. Do đó nhiều bệnh chứng
về da hoặc về tiết niệu đều có liên quan đến tượng số 2, tức Phế
Kim.
Ví dụ: Nhóm số 2000 có thể dùng để phát
tán mẩn ngứa hoặc tà độc ra khỏi da.
Lập số theo đường đi của kinh lạc. Chỗ đau thuộc vùng
đường kinh nào sẽ lập số tương ứng với đường kinh đó. Ví dụ: Ở bệnh
viêm mũi do mũi thuộc vùng tuần hành của kinh Dương Minh nên lập số là 70
để hoạt hóa cục bộ.
· Cách sử dụng số không
(0): Theo người xưa, số không là tượng số của Thái cực khi trời đất
chưa chia, vũ trụ chưa thành hình. Trong LPTS, số không được thêm vào
nhóm số có tác dụng làm gia tăng cường độ hoạt hóa hai khí Âm, Dương. Số
không đặt sau thiên về Dương và tăng tính phát tán. Số không đặt trước
nhóm số có tác dụng thiên về Âm và gia tăng tính dưỡng Âm lương huyết.
· Tổ hợp các nhóm
số. Dãy số được lập ra để điều trị cho một bệnh nhân có thể gồm một
hay nhiều nhóm số. Giữa nhóm số trước và nhóm số sau có thể có quan hệ
độc lập, quan hệ tương khắc hoặc quan hệ tương sinh. Nhưng thường nhất
vẫn là quan hệ tương sinh. Mỗi nhóm có thể gồm một hay nhiều tượng số
khác nhau. Các quan hệ của những tượng số trong cùng một nhóm luôn là
quan hệ tương sinh. Mỗi tượng số có một chức năng điều trị cụ thể hoặc
nhằm vào một triệu chứng nhất định. Tùy thuộc vào bệnh tình hoãn hay cấp,
tiêu hay bản mà dùng dãy số gồm một, hai hoặc ba nhóm số hoặc nhóm
nào được đặt trước hay sau nhóm khác.
Ví dụ: 720.650.380 được áp dụng để
điều trị cho một bệnh nhân nam bị thấp khớp mãn tính có triệu chứng đau lưng,
đau nhức các khớp, người nặng nề khó chịu, hay tiểu đêm. Bệnh nhân được
chẩn đoán là Thận Dương suy, phong hàn thấp xâm nhập làm khí huyết
ứ trệ sinh đau nhức. Giải pháp là ôn bổ Thận Dương, kiện Tỳ, hóa
thấp. Dãy số gồm ba nhóm số. Nhóm số 720 có số 7
là tượng số Dương Thổ, thuộc kinh Dương Minh nên có tác dụng tán hàn táo
thấp. Ngoài ra về mặt quái tượng, số 7 còn ứng với lưng, đầu gối, các
khớp, các đốt xương, những chỗ lồi ra, những chố kết tụ. Do đó nhóm 720 được
đặt trước nhằm ưu tiên cho việc tả thực tà ở các khớp, giải tỏa ứ trệ cục bộ,
làm giảm đau.
Nhóm số 650 với số 5 là tượng
số của Dương Mộc. Sự kết hợp 650 có ý nghĩa ôn bổ Thận
Dương. Ngoài việc chữa suy thận, 650 còn có ý nghĩa tăng
cường Dương khí tiên thiên để hỗ trợ cho Dương khí hậu thiên, khu trừ hàn
thấp.
Nhóm số 380 với Hỏa sinh Thổ
là những số thường dùng để kiện Tỳ. Theo Đông y, Tỳ ố thấp, Tỳ
chủ vận hóa và Tỳ chủ hậu thiên. Do đó chữa phong thấp thường phải
kiện Tỳ để tăng cường Dương khí hậu thiên, giúp thông kinh hoạt lạc, tản hàn
trừ thấp và ôn bổ khí huyết toàn thân. Ngoài ra, cách sắp xếp dãy số từ
số 7 đến các số 2,6,5,3,8 theo thứ tự vòng tương sinh liên tục từ số trước đến
số sau còn có tác dụng kích hoạt để tạo ra một sự luân chuyển khí huyết toàn
thân đều khắp ngủ khí, ngủ tạng. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc phòng và chữa bệnh đối với những người cao tuổi, những người có cuộc sống
tĩnh tại, kém vận động, hoặc những người cả khí huyết đều suy với nhiều chứng
trạng khác nhau.
LPTS không ràng buộc về thời gian, địa điểm
hoặc tư thế. Người bệnh có thể thực hành nhẩm niệm dãy số được lập ra bất
cứ lúc nào. Có thể nhẩm niệm trong lúc đi bộ, ngồi xe, rữa bát hoặc lúc
nằm nghĩ. Có thể niệm gián đoạn hoặc liên tục. Niệm càng lâu càng
có hiệu quả. Nếu có thể thư giãn, tinh thần tập trung vào tượng số thì
hiệu quả càng đến nhanh. Niệm không cần phát ra tiếng nhưng tâm phải ý
thức rõ dãy số, rõ ràng từng số một. Giữa mỗi nhóm số nên ngưng một tích
tắc.
Chẳng hạn 650.820 niệm là
: Sáu năm không - tám hai không - Sáu năm không – tám hai không – Sáu
năm không – tám hai không…. Trong LPTS, không phải âm
tiết, ngôn ngữ mà là tượng số, chữ số tác động lên não.
Do đó dù nhẩm niệm bằng ngôn ngữ nào, Trung Quốc, Việt Nam hay Mỹ
v.v., thì đối với một tượng số tín hiệu tiếp nhận vẫn như nhau.
Sau khi lập số nên quan sát cảm giác của người
bệnh trong năm đến mười phút nhẩm đọc đầu tiên để có thể điều chỉnh nhóm số
thích hợp. Cá biệt, một vài trường hợp đau nhức có thể tăng lên trong quá
trình sóng thông tin xung kích vào ổ bệnh. Cảm giác đau nhức sẽ nhanh
chóng qua đi khi bệnh nhân tiếp tục niệm. Về hiệu quả lâm sàng, theo những
tài liệu và bệnh án của nhóm Bác sĩ Lý Ngọc Sơn (Trung Quốc), trong số 1860
trường hợp chữa bằng LPTS được ghi nhận thì tỉ lệ có hiệu quả là 98%, chữa khỏi
đạt 71%. Không có phản ứng phụ nào đáng kể. Tuy nhiên theo thiển ý,
nên cẩn thận khi dùng tượng số 1. Tượng số 1 thuộc Dương, tính nhiệt,
ngoài việc tương ứng với Đại tràng và xương, số 1 còn là tượng số của đầu, của
mạch Đốc nên khi niệm cần theo dõi để tránh dương khí thượng nghịch.
Những trường hợp bình thường có thể dùng tượng số 2 để tác dụng vào Đại tràng.
Người
xưa cho rằng Trời có ngũ khí, đất có ngũ vị, người có ngũ tạng. Vũ trụ và
con người là đồng một thể. Từ “tạng” trong tạng tượng có nghĩa là tàng
trữ, thu tàng những tinh hoa của trời đất để kết thành cơ thể con người.
Các tổ chức nhân thân được đề cập trong học thuyết tạng tượng gồm năm tạng và
sáu phủ. Năm tạng gồm Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận. Sáu phủ gồm ruột
non, túi mật, dạ dày, ruột già, bàng quang và tam tiêu. Sự phân biệt giữa
tạng và phủ căn cứ vào chức năng và đặc điểm của chúng. Năm tạng là những
cơ quan tàng trữ tinh khí hoặc huyết dịch, trong khi lục phủ có chức năng hấp
thu, chuyển vận, tiêu hoá hoặc bài tiết. Ngoài lục phủ còn có những phủ
đặc biệt như não, tuỷ, xương, mạch và bào cung. Thực hành LPTS cần nắm
vững tương quan đối ứng giữa tượng số, tạng tượng và bệnh chứng. Sau đây
là khái quát một số nét chính về sinh, bệnh lý của tạng phủ và những tượng số
tương ứng thường được vận dụng trong LPTS:
· Tâm. Tâm nằm trong lồng
ngực, có quan hệ biểu lý với Tiểu trường. Tâm là trung tâm hoạt động sống
của cơ thể con người. Tâm thuộc quẻ Ly, hành Hoả, quái số là 3.
Tâm chủ huyết mạch. Tâm chủ huyết mạch, đề
cập đến chức năng thúc đẩy lưu thông khí huyết và vận chuyển chất dinh dưỡng đi
khắp châu thân. Tâm huyết tốt được thể hiện qua mạch tượng có sức, sắc
mặt hồng nhuận. Trái lại nếu tâm khí suy mạch sẽ nhỏ, yếu, mạch đập thất
thường, sắc mặt xanh xám hoặc nhợt nhạt. Trường hợp này tượng số là 650 với
ý nghĩa ôn thông khí dương để trợ tâm khí. Số 6 là tượng số của thận
thuỷ, số 5 là tượng của Dương Mộc. Sự kết hợp 650 tức
Thuỷ sinh Mộc, có tác dụng bồi bổ Dương khí tiên thiên, tức Dương khí toàn
thân, bao gồm cả tâm khí. Mặt khác, theo nguyên tắc “hư bổ mẫu”,
bổ cho Mộc cũng là gián tiếp bổ cho Hoả vì Mộc là mẹ của Hoả (Mộc sinh
Hoả). Ngoài ra, những bệnh lý về tim mạch thông thường trên lâm sàng thường
là những bệnh do xơ vữa động mạch. Ngoại trừ những trường hợp cấp cứu như
nhồi máu cơ tim, tai biến não cần được chuyển đến cơ sở chuyên khoa, liệu pháp
tượng số có thể được sử dụng để hoạt hoá tâm khí, ôn bổ Tỳ Dương, tăng cường
lưu thông khí huyết, thăng thanh giáng trọc, qua đó có thể làm hạ được
cholesterol trong máu và điều chỉnh huyết áp. Nhóm số để kiện Tỳ hoá
thấp, thăng thanh giáng trọc thường là những nhóm số 820, 380 hoặc 30.80. Những
trường hợp này không nhằm bổ hoặc tả một tạng nào mà nhằm kích hoạt để làm phấn
chấn khí cơ của những tạng hoặc phủ có liên quan để tăng cường khả năng sinh
khắc chế hoá cho yêu cầu thanh lọc và bài tiết. Chẳng hạn nhóm số 820 về
hình thức là Thổ sinh Kim tức kiện Tỳ ích khí.
Nội khí được sinh sẽ tiếp tục bồi bổ trở lại Thổ khí để gia tăng khả năng
chuyển vận và thanh lọc. Nhóm số 380 hoặc 30.80 có
ý nghĩa là Hoả sinh Thổ, kích hoạt đồng thời hai tạng Tâm và
Tỳ nhằm tăng cường khả năng kiện vận để lưu thông khí huyết. Tuy nhiên
trong khi 380 thiên về bệnh hoãn, chủ yếu nhằm vào kiện Tỳ,
thì 30.80 hoặc 30.820 ưu tiên giải toả những triệu
chứng cấp ở tim như tim đập nhanh, hồi hộp, tim đập không đều hoặc đau thắt
ngực. Một số trường hợp cấp diễn của cơn đau thắt ngực có thể nghĩ đến
nhóm số 720.40 với ý nghĩa sơ tiết Can khí (40) và
dùng sức nóng hậu thiên (7) để tuyên thông Tâm Dương (720).
Về khí, cùng là hổ trợ tâm khí nhưng nhóm số 650 nhằm vào dương khí
tiên thiên trong khi những nhóm số sau, 30, 80hoặc 720 nhằm
vào dương khí hậu thiên.
Tâm tàng thần. Thần ám chỉ hoạt động
ý thức và tư duy của con người. Nếu chức năng này có trở ngại sẽ gây ra
khó ngủ, mộng mị, hay quên. Kiện Tỳ thường đi đôi với an thần. Nhóm
số có tác dụng kiện Tỳ, an thần thường là 30.80 với ý nghĩa
hoạt hoá khí cơ của Tâm và Tỳ.
· Phế. Phế là cơ quan chủ về
hô hấp. Phế có quan hệ biểu lý với Đại trường. Phế thuộc quẻ Đoài,
hành Kim, tượng số là 2.
Phế chủ khí. Khí ở đây bao gồm cả khí do hô hấp và
chân khí hay chính khí của cơ thể. Nếu chức năng của Phế suy yếu sẽ làm
cho hô hấp khó khăn, tiếng nói nhỏ yếu, người dễ mệt mỏi. Tượng số để
tăng cường chức năng của Phế thường là 820. Tượng số 8 thuộc
quẻ Khôn, chủ Tỳ thuộc Thổ; tượng số 2 thuộc quẻ Đoài, chủ Phế, thuộc
Kim. 820 có ý nghĩa Tỳ Thổ sinh Phế kim,
dùng khí của mẹ để bổ hư cho con.
Phế chủ tuyên phát. Phế chủ da và lông. Điều này nói đến chức
năng của Phế khí thúc đẩy huyết dịch đi khắp cơ thể, từ kinh lạch, phủ tạng đến
cơ bắp, da, lông… Nếu Phế khí ủng tắc có thể sinh tức ngực, khó thở, nghẹt mũi,
ho hen. Nhóm số có tác dụng tuyên phát Phế khí thường là 20 hoặc 2000.
Tượng số 2 thuộc quẻ Đoài, thuộc Kim, có thêm ba số 0 ở phần sau nhằm làm gia
tăng chức năng hoạt hoá để giải toả sự ngăn nghẹt. Vì Phế chủ da và lông
nên tượng số này còn sử dụng trong nhiều bệnh lý về da, chẳng hạn chữa trị viêm
nhiễm ở da có thể lấy số 0002, với ý nghĩa vừa tuyên phát vừa
dưỡng âm lương huyết. Số 0 ở trước mỗi tượng số có tác dụng thiên về Âm.
Phế chủ túc giáng. Phế điều thông thuỷ đạo. Theo Đông y, Kim và
Thuỷ cùng nguồn. Phế là nguồn trên của nước. Với chức năng tuyên
phát, Phế khí làm cho ra mồ hôi thì Phế chủ túc giáng có tác dụng làm lợi
tiểu. Nếu chức năng này của Phế bị trở ngại có thể dẫn đến tiểu bị khó,
phù nề. Nhóm số để tăng cường chức năng túc giáng, lợi tiểu có thể
dùng 2000.60 với ý nghĩa 2000 để hoạt hoá Phế
khí, thúc đẩy túc giáng, 60 để tăng cường Thận khí, kết hợp
quan hệ Kim (2) sinh Thuỷ (6) sẽ làm lợi tiểu.
Phế khai khiếu ở mũi. Mũi là cửa ngỏ của
Phế. Phế khí tốt thì mũi thông lợi, khứu giác sẽ tinh nhạy. Nếu bị
ngoại cảm, phong hàn làm Phế khí không thông có thể gây tắc mũi, chảy nước
mũi. Cảm nhiễm dây dưa sẽ dẫn đến ho, phổi bị viêm hoặc viêm mũi mãn
tính. Nếu do phong hàn có thể lập số 70. Tượng số
7 thuộc quẻ Cấn, ứng với Dương Thổ và kinh Dương minh đi qua vùng mũi.
Tượng số 7 còn là tượng của cái mũi trong thân thể. Trường hợp viêm xoang
lâu ngày, phần âm đã bị tổn hại, có thể dùng nhóm số 70.260 với
ý nghĩa vừa thông kinh hoạt lạc tại chổ ở mũi, vừa dưỡng âm bổ Thận để củng cố
phần hạ tiêu, ngăn ngừa khí nghịch.
· Tỳ. Tỳ thuộc quẻ Khôn,
hành Thổ, tượng số là 8. Tỳ có quan hệ biểu lý với Vị. Chức năng
của Tỳ có liên quan đến toàn thể hệ thống tiêu hoá và hấp thu của cơ thể.
Tỳ chủ vận hoá. Chức năng vận hoá của
Tỳ bao gồm cả tinh hoa của thức ăn và thuỷ dịch của cơ thể để phân bổ cho các
tổ chức, cơ quan. Nếu Tỳ hư, vận hoá bị đình trệ, có thể gây ra biếng ăn,
đầy bụng, tiêu chảy, người nặng nề, mệt mỏi. Tượng số để kiện Tỳ, tăng
cường vận hoá thường là 380 với ý nghĩa Hoả sinh
Thổ, dùng khí của mẹ (Hoả) để bổ hư cho con (Thổ). Quá trình vận
chuyển và phân bổ thuỷ dịch cần đến tác động tổng hợp của cả ba tạng Tỳ, Phế,
Thận. Do đó khi gặp những bệnh lý thuỷ thấp ủng trệ đôi khi cần dùng đến
nhóm số 650.820hoặc 650.3820. Nhóm số 650 để
ôn bổ Thận Dương; 820 hoạt hoá Tỳ Thổ, trợ Phế khí, lợi túc
giáng. Tổ hợp 650.3820 được sắp xếp theo thứ tự tương
sinh của ngũ hành để hoạt hoá và tăng cường sinh khắc chế hoá cho cả năm
tạng.
Tỳ thống huyết. Chức năng này đề cập
đến tác dụng thống nhiếp huyết dịch, giữ không cho nó tràn ra ngoài mạch.
Những triệu chứng như đại tiện ra máu, thổ huyết, băng huyết, thường chú trọng
đến kiện Tỳ nhiếp huyết làm đầu. Tượng số thường dùng là 380.
· Can. Can thuộc quẻ Chấn,
tượng số là 4, thuộc Âm Mộc. Can có quan hệ biểu lý với Đởm (túi
mật). Đởm có tượng số là 5, thuộc Dương Mộc.
Can tàng huyết. Can có chức năng tàng
trữ huyết dịch và điều tiết lượng máu đến các cơ quan. Nếu Can huyết
thiếu có thể xuất hiện hoa mắt, nhìn không rõ, cơ bắp dễ bị co giật. Can
huyết thiếu ở nữ giới có thể dẫn đến kinh ít hoặc bế kinh. Tượng số liên
quan đến chức năng này thường dùng 640 với ý nghĩa Thuỷ
sinh Mộc, dùng khí của mẹ (Thận Thuỷ) để bổ hư cho con.
Can chủ sơ tiết. Khi tinh thần thoải
mái, cơ thể khoẻ mạnh thì chức năng sơ tiết của gan được điều hoà. Trái
lại khi tâm lý căng thẳng hoặc có việc tức giận, Can khí bị uất kết có thể dẫn
đến tức ngực, đau hông sườn, ăn uống mất ngon… Những ảnh hưởng của Can khí uất
kết có thể xem tương đương với những biểu hiện stress của y học hiện đại.
Stress có thể làm suy giảm sức đề kháng của cơ thể và tác động xấu đến hầu hết
các chức năng của các phủ, tạng. Tượng số thông thoát Can khí có thể dùng 430.20. Nhóm
số 430 có tác dụng tiết bớt khí của Can Mộc (4) sang cho con
là Ly Hoả (3), một hình thức tả thực ở Can. Nhóm số 20 làm
thông thoáng khí cơ toàn thân. Ngoài ra một số trường hợp tức hơi, đau
thốn thình lình ở vùng hông, sườn hoặc dạ dày do Can khí uất kết cũng có thể
được sơ tiết bằng nhóm số 4000. Số 4 là tượng số trực tiếp
của Can, còn là tượng số của những hiện tượng, những triệu chứng mang tính
cấp bách và tính động (Chấn ứng với tiếng
sấm trong thiên nhiên). Ba số không (000) làm gia tăng cường độ hoạt hoá
để sơ tiết Can khí.
Can khai khiếu ở mắt. Nếu Can đủ huyết mắt
sẽ sáng. Can huyết kém, mắt sẽ khô, thị lực kém. Can nóng mắt sẽ
đỏ. Can huyết thiếu là trường hợp hư chứng thường
dùng 640 với ý nghĩa Thận Thuỷ sinh Can Mộc.
Riêng trường hợp mắt đỏ, mắt đau là một thực chứngdo phong
nhiệt có thể dùng 30 hoặc 3000 để phát tán tà
khí ở mắt, vì số 3 vừa ứng với mắt vừa ứng với hoả.
Phủ có quan hệ biểu lý với Can là Đởm tức túi
mật. Đởm thuộc Dương Mộc, tượng số là 5. Do đó nếu 640 là
nhóm số có tác dụng bổ Can huyết, làm mát huyết thì 650 là
nhóm số có tác dụng ôn bổ tinh huyết, ôn
bổ hạ tiêu. Về mặt quái tượng, số 4 là tượng số của Chấn, ứng với
tiếng sấm của thiên nhiên và phần động nhất của thân thể tức 2 chân. Số 5
ứng với Phong khí, một yếu tố gây bệnh có liên quan với hành Mộc. Do đó
một số trường hợp trúng phong trúng gió hoặc cảm mạo gây đau nhức có thể dùng
nhóm số 50 để giải phong.
· Thận. Thận thuộc quẻ Khảm,
hành Thuỷ tượng số là 6, có quan hệ biểu lý với Bàng quang. Thận đóng vai
trò quan trọng trong lục phủ ngũ tạng. Đông y cho rằng Thận chủ về tiên
thiên và là nguồn gốc của năm tạng. Thể tạng và thần kinh của con người
phần lớn đều do Thận quyết định.
Thận tàng tinh. Tinh là vật chất cơ
bản cấu tạo thành cơ thể con người và các hoạt động chức năng của cơ thể.
Tinh được phân thành tiên thiên và hậu thiên. Tinh tiên thiên ở Thận cần
được tiếp sức và bồi bổ bằng tinh hậu thiên qua thu nạp ngũ cốc thông qua Tỳ
Vị. Thận được phân ra Thận Âm và Thận Dương. Thận Âm là nguồn gốc
các dịch thể trong thân người, làm trơn các tổ chức. Thận Dương là nguồn
gốc Dương khí, có tác dụng làm ấm và sinh hoá các ngũ tạng. Giữa Thận Âm
và Thận Dương cần có sự cân bằng và chế ước nhau để tồn tại. Thường nói
khí Dương thường thừa và khí Âm thường thiếu. Âm hư dẫn đến khí nghịch thường
gây ra nhức đầu, hoa mắt, mất ngủ, áp huyết tăng…. Trường hợp này có thể
dùng nhóm số 260. Nhóm số 260 có tác
dụng tư Âm tiềm Dương, chuyển hư hoả thượng nghịch trở về Mệnh
môn. 260 có thể bồi bổ Âm huyết, bao gồm cả Can huyết,
vì Thuỷ là mẹ của Mộc (Thuỷ sinh Mộc). Do đó bổ Thận cũng là bổ Can (hư
bổ mẫu). Trường hợp cả Âm Dương đều suy kém thường xuất hiện các
triệu chứng tinh thần mệt mỏi, đau lưng, tứ chi lạnh, hay tiểu đêm… có thể dùng
nhóm số 650.3820. Nhóm số này có thể vừa bổ Thận Dương (650)
vừa hoạt hoá khí cơ, ôn bổ toàn thân (3820).
Thận chủ thuỷ dịch. Các loại huyết dịch
cấu tạo hơn 70% cơ thể con người. Sự vận chuyển và thay thế thuỷ dịch chủ
yếu dựa vào tác dụng khí hoá của Thận Dương. Thuỷ dịch do dạ dày thu nạp,
Tỳ vận chuyển, thông qua Phế Thận để chuyển đi các nơi. Riêng các chất
độc, chất thải được đưa xuống Bàng quang và thải ra ngoài. Việc thay thế
thuỷ dịch có liên quan đến hầu hết các tạng phủ nhưng quan trọng nhất vẫn là
Tỳ, Phế, Thận. Vì vậy tượng số thường dùng để bổ thận dương và kiện Tỳ
hoá thấp với nhóm số 650.3820 cũng được áp dụng cho vận hành
thuỷ dịch.
Thận nạp khí. Theo y học truyền
thống, Phế chủ khí nhưng Thận nạp khí vì nguồn gốc của khí là ở Thận. Do
đó những trường hợp khí nghịch làm ho hen, suyển tức, hô hấp khó khăn cần phải
bổ Thận, nạp khí. Tượng số thường là 260 tức Phế
Kim sinh Thận Thuỷ. Nhóm số 260 vừa bổ hư ở Thận
lại có thể tả khí thực ở Phế và hoạt hoá khí cơ toàn thân hướng về Thận.
Thận chủ xương cốt, sinh tuỷ, Thận khai
khiếu ở tai, biểu hiện ở tóc. Do đó những bệnh chứng có liên quan đến xương
cốt, đến tai đều có liên quan đến Thận. Thận tàng tinh, tinh sinh
Thuỷ. Nếu Thận tinh dồi dào sẽ là một sinh hoá tốt cho xương. Nếu
tinh kém, xương sẽ yếu, dễ gảy, răng dễ bị hư hoại, tóc cũng thô, xấu.
Tinh ở đây bao gồm cả tiên thiên lẫn tinh hậu thiên nên vẫn cần có sự hổ trợ
khí hoá của nhiều tạng phủ khác nhau. Dãy số điều trị có thể gồm nhiều
tượng số có tác dụng tương sinh như 20.650.30.80 hoặc 650.3820.
Bàng
quang là phủ có quan hệ biểu lý với Thận, có cùng tượng số với Thận.
Triệu chứng bệnh lý thường gặp ở bàng quang là tiểu khó, tiểu rát do nhiễm
trùng đường tiểu, do sang chấn hoặc do sỏi. Nhóm số để làm phấn chấn Thận
Dương, thúc đẩy khí hoá Bàng quang có thể áp dụng 2000.60 hoặc 2000.650. Vì
Phế chủ túc giáng, Phế điều thông thuỷ đạo nên tượng số 2 thuộc Phế Kim được
phối hợp với 6 của Thận Thuỷ để tăng cường khí hoá và lợi tiểu. Đối với
trường hợp bị sỏi, sỏi Thận, sỏi bàng quang hoặc sỏi mật, ngoài việc hoạt hoá
và tăng cường khí hoá cục bộ, LPTS còn phối hợp với nhóm số 720 hoặc 70. Số
7 là tượng của Dương Thổ ứng với đá, sỏi. Nhóm số 720 có
tác dụng tả khí thực của Cấn Thổ, làm cho sỏi bị tiết khí, hao mòn… Hoạt
hoá hoặc tiết khí đều nhằm áp dụng quy luật “tụ lại thành hình, tán ra hoá
khí” để tán sỏi và tiêu sỏi. Nhiều bệnh án đã được phổ biến ở
Trung Quốc cho thấy LPTS chữa được nhiều trường hợp sỏi có đường kính trên dưới
1cm. Ngoài ra dùng LPTS số để tăng cường khí hoá ở Thận và bàng quang sẽ
ngăn ngừa được việc kết tụ sỏi sau này.
LPTS
là một phương pháp trị liệu bằng khí công. Công phu khí hóa trong LPTS
không phải do một người có công năng khí công cao thực hiện mà do chính bệnh
nhân tự điều chỉnh lấy trường khí của mình. Do đó cần có thời gian để
việc chữa trị đạt được hiệu quả. Vì vậy không nên dùng LPTS
để điều trị các trường hợp cấp cứu hoặc các chứng viêm nhiễm nặng.
Ngoài ra không áp dụng LPTS cho những bệnh nhân mất trí nhớ, hay quên, dễ nhầm
lẫn, và những người không đủ độ minh mẫn cần thiết để ghi nhớ các con số.
Khí
công cũng như Dịch học là những lý thuyết rất cổ xưa. Tuy nhiên cách vận
dụng nó vẫn không ngừng được phát huy qua các thời đại. Phạm vi bài viết,
những đối ứng về quái tượng và lý luận về nhóm số chỉ có tính cách gợi ý.
Quang Đạo (Sưu tầm và tổng hợp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét