Nghiên cứu kinh dịch
Thứ Ba, 26 tháng 12, 2023
Phong thuỷ âm trạch Cái Bạch
CÁO BẠCH
Chân ngôn thành ý ngỏ lời
Khuyên ai đã biết, mách người chưa hay;
Thần tiên quý bái xưa nay
Chớ nên dấu diếm mới dầy phúc sanh
Đây là Địa lý tạo thành,
Âm phần, Dương trạch phát sinh ra người
Thông minh, trí, dũng, anh tài.
Biết thì làm được, tương lai thấy liền!
Chính là hài cốt Tổ tiên!
Khí thiêng hun dúc, kết, truyền tinh anh
Nẩy ra con cháu tốt lành
Trai tài, gái sắc, hiển vinh, sang, giầu!
Những người bần tiện, ưu sầu!
Cũng vì mồ mả, nên mau kiếm thày!
Hoặc là học sách càng hay!
Biết tìm đất táng, sau này vinh hoa!
Muốn cho cường thịnh Quốc gia
Xã hội tốt đẹp, mọi nhà tự lo;
Cho mình khỏe mạnh tài ba
Lương tri đạo lý, đó là Hiền nhân.
Nước nào tiến hóa tinh thần
Là do ý thức công dân có nhiều.
Muốn cho trình độ tiến đều
Vậy nên phổ biến những điều quý hay.
Biết là tạo hóa đã bày
Á, Âu, Phi, Mỹ giống loài khác nhau:
Âm dương, khí hậu, sắc mầu
Mỗi phương một tính, phải đâu cùng mà…!
Nhớ rằng: Học vấn tinh hoa
Đông phương sớm nhất, như là Thần tiên!
Đãn hiềm! Bí hiểm vô truyền!
Thứ dân bị cấm! Ưu tiên Chúa hoàng!
Cái hay không được mở mang!
Để giòng dõi nối ngai vàng được lâu
Vậy nay thua kém Mỹ, Âu!
Bởi nhân tài ít! Cả châu thiệt thòi!
Dám khuyên: Xưa đã lỡ rồi!
Thì nay cải tiến, tạo thời tương lai
Tương lai sản xuất nhân tài
Lần lần biến hết lớp người hèn ngu!
Hèn ngu cũng tại mả mồ!
Bởi vì sát khí hung vô, hủ hài ( xương nát)
Hủ hài u trọc xông hơi,
Hơi tìm hợp nhập những người đồng tông
Cùng chung máu mủ cha ông,
Truyền thai con cháu, nhiễm dòng trọc ô!
Được nơi sinh, vượng táng vô
Thi hài kết, phát, tức là tinh anh!
Tinh anh truyền nhiễm thai, sinh,
Con người trí thức thông minh, sắc tài.
Tự mình, đừng có chờ trời!
Đợi trời lâu lắm! Đất thời chóng thay!
Biết thì nên kíp làm ngay,
Gặp ngôi tốc phát, con hay xuất liền!
Vậy tin Địa lý: Thần tiên!
Chính tôi đã nghiệm, quả nhiên thấy rồi!
Thề rằng: Không dám nói sai!
Ngày đêm viết sách, mách đời cái hay
Ai khôn học lấy cái này,
Tạo cho dòng giống mai ngày vinh quang.
TỰ TỐ
Kính xin chư vị Cổ Tiên, Thánh Hiền Tiền Triết đại xá!
và các bạn Thức giả thứ cho
Thứ Hai, 14 tháng 11, 2022
PHÚ ĐOÁN TV
Phú Nôm trích trong Tử Vi Áo Bí
Tử vi
Tử-vi mặt đỏ, lưng dầy
Tính tình trung hậu, người đầy phương viên
Mệnh an Ngọ, song tuyền phú quý
Tuổi Giáp, Đinh duy chỉ hai người
Tử-vi tọa thủ cửa trời
Nếu vô Sát Tấu, một đời công khanh
Vận suy, hạn nhược chẳng lành
Được sao Tử đóng bên mình giải hung
Tử, Tham, Tả, Hữu hội trung
Có người con gái lộn chồng tìm ra
Thiên Cơ
Sao Thiên Cơ đồng cung Quyền, Kỵ.
Tuổi Tuất, Thìn, túc trí cơ mưu
Thông minh, biến hóa đủ chiều
Cự, Cơ, Tý, Ngọ mỹ miều lắm thay
Tuổi Đinh, tuổi Quý mới hay
Thạch Trung Ẩn Ngọc, cách này trời ban
Những người tuổi Bính, tuổi Tân
Cự, Cơ, Mão,Dậu thập phần giàu sang
Lâu đài gấm vóc thênh thang
Xum xuê hoa lá, đầy dương bạc tiền
Cự Cơ Tuần Triệt tại Điền
Tư cơ cha mẹ không truyền cho con
Cơ Lương, Thái Tuế, Tang Môn
Lâm vào chốn hãm, cành con chớ trèo
Cự ngộ Hổ, chó đá chầu
Ngộ Dương Đà, có thạch đầu tại gia
Thiên-Cơ, Bạch-hổ mà gia
Tang-Môn, Điếu-Khách, là sa hoàng tuyền
Thái Dương
Thái-Dương chủ Quan-Lộc tinh
Ngọ cung, Hỏa mệnh quang vinh nhất đời
"Địch quốc chi phú" là người
"Tranh quyền chi vị" nết thời khó thương
Cư cung Mão "Lương Xương Lộc hội
Tuổi Tuất, Thìn cách tối vinh xương"
Chính là: Nhật xuất phù tang
Giữ ngôi Tể Tướng quyền sang nhất triều
Dần đến Ngọ là chiều cát vượng
Trí thông minh, hình tướng gọn gàng
Ở ăn tươm tất đàng hoàng
Chuộng điều phước thiện, tránh đường vô liêm
Canh niên, Mão vị không hiềm
Tuổi Nhâm, cung Ngọ quý quyền hanh thông
Thái-dương, Hợi địa bất dung
Tự Dậu tới Sửu nghịch dòng chẳng hay
Dương Đà Không kiếp ăn mày
Mua phiền chuộc não lo ngày lo đêm
Thiết bi hãm sắc, tính hèn
Dương Đà Ngộ Kỵ, mắt phiền kém tươi
Gia nhân sạ khứ, sạ hồi
Bởi sao Nhật Nguyệt hãm ngồi Nô cung
Thiên-tài ngộ Nhật bất trung
Tính tình nhâng nháo, dể dưng Phật, Thần
Vũ Khúc
Vũ-Khúc là sao Kim hình
Vóc người nho nhỏ, tính tình thanh cao
"Chí cương chí nghị" anh hào
Khoan dung đại lượng lược thao gồm tài
Mệnh Sửu Mùi, đồng hai Văn, Vũ
Tuổi Thổ phùng Thai Tọa tam phương
Binh quyền vạn lý nghênh ngang
Anh hùng "danh trấn chư bang" một thời
Ai người tuổi Thổ, Kim hoặc Mộc
Gặp Tham-Lang Vũ-Khúc đồng liêu
"Văn mô vũ lược kiêm ưu
Mộ trung Thai Tọa", cách siêu mọi người
Thiên Đồng
Thiên-đồng mắt lớn lưng dầy
Vóc người mập mạp, diện đầy, phương viên
Tâm cao chí đại nhưng hiền
Không cao ngạo, dẫu bút nghiên thực tài
Đãn hiềm Đà, Kỵ lâm lai
Mắt lươn ty hý, lại hay ngồi đồng
Cúng Kinh-Dương tọa Ngọ cung
Với sao Phượng, Giải anh hùng một phương
Dần Thân cung, Đồng Lương đắc cách
Giáp Tân Canh "Thủ bạch thành gia"
Thiên-lương, Nguyệt-đức chiếu kề
Một là đạo sĩ, hai là tăng nhân
Với những người tuổi Thân, Thìn, Tý
Cách Đồng Lương Cơ Nguyệt tạo nên
Quan sang, lộc trọng vững bền
Cửa nhà cao rộng, bạc tiền đầy kho.
Liêm Trinh
Liêm-trinh, hỏa vượng thân tràng
Lộ hầu, lộ nhãn, mắt vàng mày thưa
Cư Thân, Mệnh, hóa Đào-Hoa
Ăn chơi, phóng đãng, xa hoa khác người
Hãm cung đóng tại Sửu, Mùi
Riêng hợp tuổi Bính thành người giầu sang
Cùng Tướng, Lộc hội tam phương
Quyền cao, lộc trọng, phong quan mọi đàng
Dần Thân với Khúc Xương đồng cúng
Văn đã hay, võ cũng đồng tài
Anh hùng cái thế trong đời
Liêm Tham Tỵ Hợi, gặp thời "huyền tu"
Thái Âm
Mệnh, Thân có Thái-âm tọa chủ
Hợi cung, người Mệnh Thủy Mộc Kim
Cách là: "Nguyệt lãng thiên môn"
Tư cơ đồ sộ, quyền môn chói lòa
Âm hội Lộc, Quyền Khoa cư Tý
Tuổi Quý Nhân, phú hiển trăm phần
"Thiên lương, Nguyệt diệu, dâm bần
Ngộ Dương Đà, phải thương nhân, tán tài
Hội Tả, Hữu, Lộc-tồn, Vũ-khúc
Cách riêng cho những bậc phú ông
Thái-âm ngộ Kỵ, Hình đồng
Mắt mờ, có tật, bằng không mù lòa
Tham Lang
Tham-lang khả biến thành Đào
Mệnh Tham Sinh Vượng sống lâu hơn người
Tham, Linh Hỏa an bài Tử Mộ
Ngôi công hầu, triệu phú gia tư
Tham-lang ác sát đồng cư
"Cẩu thâu thử thiết" nghê tư chính nòi
Tham với Tả, Hữu, Khôi, Việt hội
Mộc sinh nhân Thầy Bói lừng danh
Tham lang, Vũ-khúc đồng hành
Mệnh cư Mùi, Sửu tất thành phú thương
Tham nhân, hội Văn-Xương, Văn-Khúc
Chính thực chàng đại dóc ba hoa
Cư Hợi, Tý ngộ Dương Đà
Cuộc đời "Phiếm thủy đào hoa" bồng bềnh
Hai tù tinh "Tham Liêm Tỵ, Hợi"
Ngộ Triệt Tuần phản hữu kỳ công
Tham Hỏa miếu, cách phú ông
"Tham Linh tịnh thú" Tướng hùng vang danh
Cự Môn
Thân Mệnh, Cự-môn, Tý Ngọ chuẩn
Phùng Triệt, Tuần "ngọc ẩn thạch trung"
Cách này phú quý vô song
Cự phùng Quyền Lộc cũng đồng vinh xương
Cự, Đà, Tấu, Tuế một đoàn
Tháng ngày chầu chực công môn miệt mài.
Cự môn, Thìn Tuất hai nơi
Đầu đình, góc chợ những người ngụ cư
Duy tuổi Tân, phản vi phú quý
Vì Cự-Môn phương vị Tốn, Tân
Sao Cự Nhật, cung Dần Thân
Ngộ Quyền, ngộ Phượng, phong vân gặp thì
Ngành Tư Pháp, Luật-sư cãi giỏi
Mệnh Cự-Môn hội với Tuế Hình
Ai người miệng kín như bình
Thái-tuế, Việt, Kỵ song hành Cự-Môn
Thiên Tướng
Tướng Ấn chính vị Công Hầu
Binh, Hình, Lộc, Mã hội chầu Mệnh viên
Cung Thìn Tuất, Mệnh an Tướng thủ
Quan-Lộc cung vượng khí công danh
Thiên tướng chẳng kỵ Sát tinh
Chỉ hiềm Triệt lộ đầu mình phân hai
Thiên tướng là mặt con người
Hương trời sắc nước mệnh ai Tướng Hồng
Đãn hiềm lấn át quyền chồng
Tướng, Phúc, Hình, Kỵ bóng đồng tổn hao
Tướng và Khúc, hội Đào Mộc Cái
Sắc khuynh thành, chết bởi dâm bôn…
Thiên Lương
Thiên Lương, mộc chủ Thọ tinh
Đông cung Thân, Tuất, Thìn Dần mới hay
Nữ lưu thủ mệnh phúc đầy
Hao, Hình, Kiếp, Sát một bầy tai ương
Mệnh cung: "Ngọ thượng Thiên-lương"
Tuổi Đinh, Kỷ, Quý quyền sang nhất triều
Hội Thất Sát, Song Hao tại Tỵ
Phải đề phòng hiểm họa đao thương
Ngộ Trì "Soi bóng đài gương"
Vị công hầu, hội Văn-xương một nhà
Tuổi hoa nở, đăng khoa cao chiếm
Bởi Thiên lương thủ mệnh Tý cung
Xương Lộc hội Nhật chiếu xung
Đè đầu sĩ tử, văn hùng nhất danh.
Thất Sát
Thất-sát thuộc Kim ưng đới Hỏa
Đóng Dần, Thân miếu địa an bài
Giáp, Canh, Đinh, Kỷ bốn người
Danh cao, Lộc trọng một đời vinh xương
Sát, Xương, Khúc "tứ phương củng phục"
Tuổi Mão, Thân thọ phúc song toàn
Tốn cung Sát Tử đồng ban
"Đế Huề Bảo Kiếm" võ quyền kinh uy
Ai người "Lộ thượng mai thi"
Vì sao Liêm Sát, đồng quy Sửu, Mùi
Ai người trận địa thây vùi
Vì sao Kình Sát đứng ngồi Ngọ cung
Sát tuyệt địa Đà Dương xung chiếu
Thầy Nhan Hồi chết yểu, thương ôi
Nữ mệnh Sát, Ngọ Tý ngồi
Ngộ Riêu, Kiếp phải lệ rơi vì tình.
Phá Quân
Phá-Quân thuộc Thủy, Hao tinh
Hào hùng, phúc hậu gian manh tuyệt vời
Tuổi Canh, Quý Phá ngồi Ngọ Tý
An Mệnh viên: "Miếu vị anh tinh"
Anh hùng cái thế, tranh vanh
Cùng Vũ Tỵ, Hợi "đông thành tây tan"
Phải chờ tới vãn niên mới khá
Đồng, Khốc, Hư: "tịnh thủ xưng hùng"
Giang sơn một kiếm vẫy vùng
Miệng cười ròn rã nhưng lòng vẫn nghi
Đã táo bạo, còn ưa nịnh, bốc
Phá, Tham phùng Mã Lộc dâm, lang
Hỏa Hao ngộ Phá tai ương
Phá-Quân Linh, Hỏa muôn phương dãi dầu
Kình đồng Phá, lại triều Phụ Bật
Mão Dậu cung, là đất nghịch thường
Hoàng Sào làm loạn trào cương
Nhân dân đồ thán, thực phường bất nhân
Trai bất nhân, Phá-quân Thìn Tuất
Ngộ Khoa, Tuần phản ác vi lương
Tuổi Mậu Quý, lắm bạc vàng
Hoạnh tài, bộc phát giầu sang một đời
Văn Xương
Sao Xương, Khúc chủ văn chương
Đồng lâm Thìn, Tuất chi hương tuyệt vợi
"Miêu nhi bất tú" Nhan Hồi
Văn-Xương ngộ Kỵ, uổng đời tài hoa
Văn Khúc
Văn-khúc chủ văn chương thuộc thủy
Mệnh, Thân lâm nhị mộ Tuất Thìn
Phùng Khoa, Tuế với Hóa Quyền
Văn chương, hùng biện hoàn toàn giỏi giang
Vì cùng Vũ-khúc đồng hương
Tướng kiêm văn võ, vinh quang một đời
Tả Phụ
Tả-phụ là sao phù trì
Tả, Hữu thủ Mệnh, là đi phương ngoài
Giáp Tả Hữu, Thân phù đúng cách
Ngôi công hầu, hiển hách một đời
Mộ cung Tả, Hữu đồng lai
Thăng quan tiến chức, miếu đài viển vinh.
Hữu Bật
Phụ-Bật ngộ Thái-Âm nhân
Chuyên làm bà đỡ, giúp đàn sơ sinh
Phụ Bật, Khúc, Tướng đồng viên
Thầy lang, Bác-sĩ danh truyền lương y.
Thiên Khôi và Thiên Việt
Khôi, Lương Thanh Việt, Cái Hồng
Trai cận cửu trùng, gái tác cung phi
Hồng, Khôi, Xương, Tấu đề huề
Sân rồng, bảng hổ danh đề một hai
Khoa, Quyền, Lộc, Mã Việt, Khôi.
Công thành danh toại, một đời hiển vinh.
Thiên Mã
Mệnh cung trung, đóng sao Thiên-Mã
Tại Dần cung, gọi Mã Trạng-Nguyên
Tể Tướng Mã, Thân cung an
Ô Truy Ngự-Sử, Hợi nhân Mã lâm
Phù thi Mã, Hình xâm Mã vị
Xích thố Mã, cung Tỵ Mã ngồi
Mã Đà, triết túc quê rồi
"Giao trì Lộc Mã" tiền tài đầy kho.
Lộc Tồn
Mệnh có Lộc, ngộ Phá Không
Cát vượng phản biến vì hung tức thời
"Uyên ương Lộc hội" tốt vời
Công danh hiển hách một đời giầu sang
Song Lộc thủ Mệnh quyền chuyên
Lộc Đảo, Mã Đảo hết phiền lại lo.
Kình Dương
Kinh cư Thìn, Tuất Sửu, Mùi
Tam phượng cát chiếu, một đời giầu sang
Mệnh viên Ngọ, tọa Kình Dương
"Mã đầu đới kiếm" biên cương trị vì.
Đà La
Đà-la bản tính chẳng lành
Dần, Thân, Tỵ Hợi đồng hành vượng cung
Đà-la hãm địa tối hung
Cuộc đời cơ cực, bình bồng độ thân
Hỏa Tinh
Hỏa-tinh lửa đốt tứ bề
Tỵ, Ngọ, Dần, Mão đề huề vượng cung
Hỏa cư Hợi, Ngộ Tuyệt đồng
Tham, Hình củng hội, lẫy lừng uy danh
Hỏa-Tinh Điền-trạch độc hành
Cửa nhà tiền bạc tan tành gió.bay
Linh Tinh
Linh tinh là điện lửa trời
Tý, Ngọ miếu địa, hãm thời Dậu, Thân
Linh-Tinh Thiên-Việt ở gần
Gió mưa sấm sét phải cần tránh xa
Kẻo mà sét đánh oan gia.
Hóa Lộc
Hóa-Lộc thủ Mệnh cung
Tý, Ngọ, Mão, Dậu là vùng tốt tươi
Lộc-Tồn, Hóa-Lộc sánh vai
Chẳng bằng củng chiếu, đông đoài song phương
Hóa Quyền
Hóa-quyền chủ thế anh hùng
Dần Mão Tý Hợi là cung miếu đường
Quyền hội Thất-sát Cự-môn
Công danh hiển hách, quyền tôn nhất Triều.
Hóa Khoa
Hóa-khoa chủ văn chương thi cử
Hợi Dần Thân Tỵ thủ Mệnh cung
Công danh, khoa bảng hanh thông
Khoa tinh, vị tướng giải hung tuyệt vời
Hóa Kỵ
Hóa-kỵ chính sao Kế-đô
Âm trầm, cơ sảo mưu đồ cạnh tranh
Hóa-Kỵ hội với Quyền tinh
Đường mây nhờ ở cơ mưu tuyệt vời
Hợi, Tý, Dần, Mão Dậu, Thân
Sáu cung vượng địa, Kỵ tinh an bài.
Thiên Không
Hạng Võ anh hùng ngộ Thiên-Không táng quốc
Thạch Sùng hào phú, phùng Địa-Kiếp vong gia
Thiên-Không hội với Đào-Hoa
Cầm, Kỳ, Thi, Họa tài ba tuyệt vời
Cơ mưu quyền biến hơn người
Ngàn năm: mệnh bạc là đời tài hoa
Thiên Riêu
Hình, Riêu phân gái long đong
Ví chẳng lộn chồng, ắt cũng phản phu.
Thiên-Riêu, Long, Phượng một nhà
Thiên hương quốc sắc, nõn nà giai nhân.
Thiên-Khốc và Thiên-Hư
Khốc, Hư Tý Ngọ cung Mệnh thủ
Hội Mã Hình nghiệp võ hiển dương
Khốc Hư hội với Kinh Dương
Hữu sinh vô dưỡng, ngộ Tang mất người
Hậu thành, tiên trở trong đời
Bởi sao Hư Khốc cùng ngồi Mệnh-viên.
Hồng-Loan
Sao Hồng-Loan hội cùng Tử, Phù
Gái chính chuyên, thục nữ ngàn xưa.
Hồng-Loan ngộ Kỵ cung Phu
Gái ngồi quạt mồ, lòng dạ xốn xao
Hồng Cơ Tấu Vũ, Hỷ, Đào
Câu ca, điệu vũ nghề nào cũng tinh
Thiên-Hỷ
Sao Thiên Hỷ, chủ mừng vui
Thiên-Hỷ thủ mệnh, miệng cười có duyên
Hỷ-Thần, Thiên-Hỷ, Hồng-Loan
Ba sao đem lại hân hoan trong đời
Tam Thai và Bát tọa
Giáp Bát-Tọa, giáp Tam-Thai
Thiếu niên sớm dự lâu đài nghênh ngang
Hỏa, Linh, Kình, Tấu đồng ban
Tung hoành bút phượng trong làng văn nhân
Bút hoa vùng vẫy phòng văn
Tài riêng thiên phú người Tân, Tốn Đoài
Càn Hợi ngọc bút vẽ vời
Mão Dậu bùa ấn, bút người Phát sư.
Long-Trì, Phượng-Các
Long-Trì, Phượng-các hai sao
Cung Mùi, cung Sửu dòng vao vượng thay
Riêu, Hỷ Khốc, "rồng mây gặp hội"
Chốn thi đinh danh vọi vọi cao
Cái cùng Long Phượng Hồng Đào
Chủ quyền nội tướng, anh hào hàng hai
Phượng Long giáp Mệnh có tài
Trước sau vinh hiển ra ngoài nổi danh
Ân-Quang và Thiên Quý
Mệnh Thiên-Quý chẳng phùng Không sứ
Hội Khoa Xương sĩ tử nể vì
Thông minh tài học ai bì
Lọng vàng ngựa tía cờ khoe rợp trời.
Cô Thần và Quả Tú
Cô Thần, Quả Tú hai sao
Thiết thân chẳng có bạn nào với ai
Tử-Tức mà ngộ cả hai
Gian truân vất vả về hai nhi sinh
Quả Tú mà ngộ Thiên-Hình
Tuổi già đầu bạc một mình không con
Chữ rằng: "Họa phúc vô môn"
Tam phương cát chiếu, có con muộn mằn.
Phi-Liêm
Phi-Liêm ngộ Hỏa, Linh, Hình, Việt
Thành đạn tên bắt giết, hại thay
Phi-Liêm hội Mã, Hổ bay
Công thành danh toại, rồng mây gặp thời.
Thai-Phụ Phong-Cáo
Thai-Phụ, Phong-Cáo, Khoa tỉnh ngộ
Bước công danh rộng mở đường mây
Cát tinh hội với Cáo Thai
Công danh thẳng tiến, lâu đài nghênh ngang
Hoa-Cái
Khôi, Lương, Thanh, Việt, Cái, Hồng
Trai cận cửu trùng, gái tác cung phi
Hóa-Quyền Hoa-Cái hội tề
Cùng Hổ, Long, Phượng quyền về tay ta
Đại Tiểu Hao
Song Hao thuộc Thủy đại hà
Mão Dậu thủ mệnh, chính là miếu cung
Cách là "Chúng Thủy Triều Đông"
Phát tài, phát lộc vào không bến bờ
Tham-lang ngộ Hao một nhà
Cầm vàng nhịn đói, lệ hòa miếng ăn.
Thiên-Đức
Thiên Nguyệt-đức ngộ Đào Hồng
Trai lấy vợ đẹp, gái chồng giầu sang
Thiên Nguyệt-đức tọa chiếu phương
Cùng là Quan Phúc trừ hung cứu người
Thanh-Long
Thanh-Long, Mệnh Phúc, Thân tọa thủ
Tại Thìn cung, mạnh Thổ, Âm Nam
Hóa-Kỵ chiếu hợp tam phương
Tuổi Đinh, Tuổi Kỷ toại đường công danh
PHÚ ĐOÁN MẠNH THÂN CUNG
Ngôi Tử-vi lâm vào chốn hãm
Quyền cứu nguy thiểu giảm vô uy
Phủ phùng Không xứ tài suy
Chung thân nan bảo tư cơ lưu truyền
Phượng Long Mão Dậu đôi miền
Vượng thì kim bảng ghi tên ngao đầu
Mấy người bất hiển công danh
Chỉ vì Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi
Quý Ân Mùi Sửu hạn lưu
Đường mây nhẹ bước danh cao bảng rồng
Ân Khôi Quý Việt Cái Hồng
Nam cận cửu trùng nữ tác cung phi
Công danh đợi tuổi tác cao
Giáp Liêm giáp Sát một hào không sai
Giáp Bát-tọa giám Tam-thai
Thiếu niên đã dự các đài nghênh ngang
Giáp Long giáp Phượng mấy ai
Trước sau vinh hiển ra ngoài nổi danh
Những người nên thiếu công danh
Hồng-Loan, Bát-tọa ở mình không sai
Hồng Cơ Tẩu Vũ Hỷ Đào
Gái nghề ca xướng luận vào Mạnh-viên
Hồng-Loan ngộ Kiếp Không lâm thủ
Xá bàn chi bần lũ yểu vong
Tham Liêm Tỵ Hợi không bàn
Chàng Tiêu thuở trước tân toan ngục hình
Thiên Nguyệt-đức Giải-thần tàng
Cùng là Quan Phúc một làng trừ hung
Luận xem phú quý mấy người
Mạnh vô chính diệu trong ngoài tam Không.
Tọa Quý hướng Quý chẳng phùng Không xứ
Gặp Khoa thời nhất cử thành danh
Ấn mang vị liệt công hầu
Sao lành Tướng Cáo hội chầu Mạnh-viên
Đào Hồng Sát Phá Tham Liêm
Lâm vào nữ phái chỉ hiềm sát phu
Tang Đào ở Mạnh cung sau trước
Gái đã đành lỡ bước cầu ô
Vận lưu đại tiểu trùng phùng
Cát thời thịnh vượng, hung thời chuân chuyên
Dương Đà xâm chiếm Mạnh-viên
Nói năng loạn thuyết những phường điêu ngoa
Lỗ tai điếc lác lo phiền
Dương Đà Không Kiếp Cự miền Mạnh-viên
Miệng ấp úng nói không ra tiếng
Vì Tuế Đà Riêu Cái Mạnh cung
Kỵ tinh Xương Khúc đồng cung
Nhan-Hồi yểu tử nghĩ thương anh tài
Cơ Loan Hồng Phúc Mạnh trung
Cửi canh kim chỉ vá may thêu thùa
Trai bất nhân Phá-quân Thìn Tuất
Gái bạc tình Tham Sát nhân cung
PHU ĐOÁN HUYNH ĐỆ CUNG
Cung Huynh Đệ Triệt Tuần lâm thủ
Chim đầu đàn vỗ cánh bay cao
Kiếp Không hai gã khá ngừa
Lâm vào Huynh-đệ đơn sơ một mình
Phát phùng Hình Kỵ Huynh hương
Anh em bất thuận nhiều đường tương tranh.
PHÚ ĐOÁN THÊ CUNG
Vợ chồng viễn phối tha phương
Đào Hồng đối chiếu vào làng Thiên-di
Thiên Nguyệt Đức ngộ Đào Hồng
Trai lấy vợ đẹp gái lành chồng sang
Vợ về của có muôn vàn
Ân-quang Nguyệt-đức, Thái-dương Mã đồng
Ai mà Thiên tướng Đào Hồng
Ai mà Thiên mã Lộc phùng Thanh Long
Sao Thai mà ngộ Đào Hoa
Tiền dâm hậu thú mới ra vợ chồng
Hoa-Cái Phượng-các Đào Hồng
Trai toan nể vợ trong lòng khôn khuây
Phu cung Hóa kỵ một mình
Tơ tình chưa dứt mối tình đã xui
Thiên Riêu bất chính cả đôi
Liêm-Trinh viễn phối ở nơi bần hàn
Khúc Xương ấy gái chẳng lành
Vườn xuân ong bướm hiệp tình thung thăng.
Phụ Bật hội Thái-Âm nhàn
Gái làm bà đỡ, cứu đàn nhi sinh
Hình Riêu số gái long đong
Ví chẳng lộn chồng ắt cũng phản phu
Đào Riêu số gái ai hay
Chồng ra khỏi cửa giắt tay trai vào
Triệt Tuần ngộ Mã Hình, Thê vị
Vợ bỏ chồng đào tỵ tha hương
Đào tinh mọc ở Nô cung
Gái ngoan mắc tiếng bất trung cùng chồng
Vợ chồng nay giận mai hờn
Phục-binh Hóa-kỵ nơi tòa Phu Thê
PHÚ ĐOÁN TÀI BẠCH CUNG
Lộc-tồn Thiên-Mã cùng Gia
Có người buôn một bán ba nên giầu
Song Hao Hội tại Phúc Tài
Tán nhiều tụ ít mấy ai nên giầu
Ấy ai phúc lộc đề đa
Vũ Lộc Thiên-mã chiếu hòa Tài cung
Ấy ai danh lợi thong dong
Bởi vì Tả Hữu hội đồng Đế tinh
Ấy ai địch quốc tiếng đồn
Bởi vì Thiên-mã hội cùng Tràng-sinh
Tứ-sát đóng ở Hợi cung
Khi hết lại có khi vơi đầy
Phá-quân đóng ở Tài cung
Đồng tiền lên xuống lựa dòng nước xuôi
Số ai đầm ấm thanh nhàn
Vì chưng Tả Hữu hội ba Khoa Quyền
Nghèo hèn bởi tại Kiếp Không
Dương Đà Linh Hỏa long đong bôn trì
Song Hao lâm đến Phúc Tài
Nhọc lòng uổng phí công ai giữ tiền
PHÚ ĐOÁN TẬT ÁCH CUNG
Triệt Tuần đóng tại Ách cung
Tai nào cũng khỏi nạn nào cũng qua
Hình Dương Hoa-cái ngộ Đà
Hạn hành năm ấy đậu hoa phải phòng
Hỏa Linh Trì Mộc chiếu soi
Lánh mình lửa cháy nước sôi phải phòng
Kỵ Đà Tấu Tuế một đoàn
Đêm ngày chầu chực cửa quan mỏi mòn
Bệnh-phù ngộ Thiên-hình tai vạ
Ất có người chịu họa phong sương
Bật đởm tri túc rất hung
Bởi vì Tật ách Bệnh phùng Kiếp Cơ
Linh Phù Sát Phá hạn cao
Vua Văn thuở trước phải vào ngục trung
Ách cung Bạch-hổ huyết hư
Ách cung Thiên-Khốc Cư Hư phong đàm
Dương Đà Hình hội mục tý
Âm Dương Riêu Kỵ cho nên mắt lòa
Tham-lang Hỏa-kỵ hạn phùng
Cự-môn Hỏa-kỵ phải phòng giếng ao
Kiếp Không Hình Việt xấu sao
Hỏa Linh Hình Việt gươm đao búa trời
PHÚ ĐOÁN THIÊN DI CUNG
Thiên-di ấy Mã Binh ngồi
Đánh đông dẹp bắc pha phôi cõi ngoài
Quan cung hỷ ngộ Hồng Đào
Thiên-di tối kỵ Kiếp Không lâm vào
Long đong đông tẩu tây trì
Chẳng qua Thiên-mã Thiên-di hãm nhà
Chơi bời du thủy du san
Thiên-di ngộ Mã gặp chàng Đà-La
Thiên-di Nhật Nguyệt giáp đôi
Nhất sinh xuất ngoại nhiều nơi thế thần
Thiên-di Hoa-cái Hỷ-Thần
Thiên-di Phụ Bật quý nhân yêu vì
Thiên-di Hóa-kỵ ra ngoài
Kẻ thù người oán chẳng ai gần mình
Tướng-quân ngộ Triệt trước miền
Ra đường gặp giặc mình liền tan thây
Thiên-di Địa-kiếp Cơ Liêm
Hồn quy phách lạc cánh tiên lánh phàm
PHÚ ĐOÁN NÔ BỘC CUNG
Con em xạ khứ xạ hoàn
Bởi sao Nhật Nguyệt hãm ngồi Nô cung
Hình Kỵ Tả Hữu hội cung
Gia trung rộn rịp ung dung tớ thầy.
PHÚ ĐOÁN QUAN LỘC CUNG
Mộ phùng Tả Hữu đồng lai
Thăng quan tiến chức miếu đài hiển vinh
Đồng Lương hội chiếu Dần Thân
Khi xưa bạch thủ mà nay sang giầu
Khốc Hư Tý Ngọ đồng trì.
Thiên-Hình Dần Mão chiếu vì Quan cung
Lộc phùng Tử Mã nhất ban
Phong vân tế hội Mã Long Hỷ đồng
Khôi Lương Cái Việt Tấu Hồng
Nam cận cửu trùng, nữ tác cung phi.
PHÚ ĐOÁN ĐIỀN TRẠCH CUNG
Triệt Tuần đóng ở cung Điền
Tư cơ cha mẹ không truyền đến cho
Phá-quân sao ấy tán tài
Lâm trạch bán hết lưu lai tổ điền
Tang-môn ngộ Hỏa xấu sao
Chiếu soi phương nào, chốn ấy hỏa tai
Ân-quang phùng Đào Hồng Điền-trạch
Ấy cô dì lưu lại ruộng nương
Long-trì Địa-kiếp đồng hương
Giếng bồi ao lấp ở bên nhà này
Cơ Lương tương hội Tuất Thìn
Mộc lâm tổ nghiệp đến hồi lai sinh
Khốc Hư Tang hội chẳng lành
Tổn người hại của chẳng yên được nào.
PHÚ ĐOÁN PHỤ MẪU CUNG
Âm Dương Tuần Triệt tại tiền
Mẹ cha ắt đã quy tiên thuở nào
Phụ-mẫu cung hội Thiên-Lương
Mẹ cha đồng hưởng thọ trường an vui.
PHÚ ĐOÁN TỬ TỨC CUNG
Tử cung ngộ Kiếp Không gia
Nuôi con chẳng mát đã ba bốn lần
Khốc Hư đồng ngộ Dưỡng tinh
Sinh nhiều nuôi ít gian chuân thuở nào
Hiếm hoi bởi tại Hình Hao
Quý tinh trước cửa một hào đông con
Thiên-hình Sát Hổ Tử cung
Đến già chẳng thấy tay bồng tay mang
Sinh con những giống ngẩn ngơ
Tử cung xung chiếu Sát Đà Kiếp Không
Tử cung Không Kiếp trùng giao
Bệnh phùng băng huyết thay bào phù hoa
Tới Phật đường cầu tự mới sinh
Tràng-sinh Đế-vương đa nhân
Giáp chiếu Nhật Nguyệt có lần sinh đôi
Đế-vượng ngộ Thai Khôi cùng Tướng
Có dị bào hai ngả anh em
Sinh con số hiếm rõ ràng
Bởi sao Đà Kỵ lâm hàng Tử cung
Hổ Lang Không Kiếp tang giao
Sinh con chẳng mát đã ba bốn lần
Sinh con Quyền Lộc hiển vinh
Sinh con Khôi Việt văn tinh đỗ đầu
Sinh con Long Phượng sang giầu
Khúc Xương chiếu giáp thập hầu tặng phong
Hỷ-thần hội với Phúc tinh
Dương danh quý tử hiển vinh sang giầu
Tử cung Thai-tướng Phục-binh
Vợ chồng ắt hẳn tư tinh thuở nào
Cô-thần Quả-tú hai sao
Gian chuân vất vả về hài nhi sinh
PHÚ ĐOÁN PHÚC ĐỨC CUNG
Phá Tý Ngọ, trưởng phiêu lưu
Thủy Kim hợp cách, Sửu Mùi Khúc Xương
Dần Thân Không Kiếp cơ hàn
Cự Cơ Mão Dậu phúc càng thêm hay.
Thìn Tuất Tham Vũ cũng hay
Chớ ai Tỵ Hợi phúc bầy Không vong
Thất-sát tròn thẳng mà dài
Tham-Lang Phượng-các là loài chim muông
Liêm-Trinh ngộ Hỏa tiêm đầu
Thiên-Lương có chẩm gối đầu thảnh thơi
Hai quan Tướng Phá cùng ngồi
Tướng trong là giáp binh ngoài là chiêng
Tổ sớm Tử Phủ một miền
Những sinh có nước tả truyền hữu lai
Phòng văn đồ duệ án tiền.
Tân nghiên tân bút Chấn Canh cổ kỳ
Cò Hóa-lộc bảng Hóa-khoa
Ngựa đi Thiên-mã, voi quỳ Kình-Dương
Văn-Khôi Vũ Việt thịnh đường
Tả Long hữu Hổ thuận tường phân kim
Kiếp Không Tuần Triệt gia liên
Có ông mất mả ở miền quan sơn
Tang-môn Cô-quả Đào Hồng
Họ hàng có kẻ góa chồng cô đơn
Khốc Hư Cơ Cự muôn vàn
Đường đi lẩn quất Vũ nhàn Triệt không
Đà tiền ngộ Mã Tương xung
Trai bị hình ngục gái phòng nghiệt thương
Rể cây khôn tránh khỏi đường
Phá liêm Mão Dậu Điếu Tang một tòa
Lộc nhàn Mã ngộ Kiếp không
Long phi Hổ tấu một dòng phiêu lưu
Lộ bàng Triệt Ngộ Phá quân
Đà la diệu táng mộ phần đảo thi
Mã Đà gái lấy chồng xa
Thiên-cơ Hư Nhuận bệnh ra điên cuồng
Thái-dương tam địa mộ phần
Thái-âm tam tại âm nhân rỏ ràng
Ngộ hãm tứ tại tổ đường
Thiên-đồng tam địa thời phong bốn đời
Vũ-khúc Thiên-tướng năm đời
Cơ Tham thứ sáu bảy đời Cự Lương
Tả phủ thượng tổ ngôi dương
Hoa-Cái mộ mới cũng ngôi Hỷ-thần.
(Dẫn theo blog Trần Nhật Thành)
Thứ Hai, 24 tháng 10, 2022
CẦU LÀNG QUÊ TÔI
Cầu Làng quê tôi – một thời để nhớ.
Quê tôi xã Thanh Phong có con hói chảy gần vòng quanh xã, bốn phía tiếp giáp các xã Thanh Hưng, Thanh Tường, Xuân Sơn, Minh Sơn, Nhân Sơn đều phải lội hoặc đi qua những cây cầu khỉ, cầu gỗ như Cầu Bào, cầu Cần, cầu Vinh Ân... Cầu Làng là một trong những cái cầu đơn sơ như thế. Cầu Làng bắc qua con hói chảy qua làng Hòa Mỹ chia đôi làng này thành 2 nửa, Phong Hòa và Phong Trà, nằm trên đường liên xã liên huyện từ Thanh Đồng lên Minh Sơn, nay gọi là Quốc lộ 7B.
Qua thăng trầm của lịch sử, cầu đã được tu sửa làm mới nhiều lần. Ngày xưa cầu làm bằng những bó tre hai ba cây bắc qua hói, có dàn tay vịn. Trâu bò không thể đi qua mà chỉ có người mới đi được. Trẻ con những đứa yếu bóng vía cũng không dàm bò qua bởi hói sâu, nhìn xuống hơi bị ngợp. Bên cầu có mấy cây đa rợp bóng nay thì đã chết vì già cỗi. Tôi có đứa cháu là Trần Văn Mão gọi tôi bằng cậu, nay cũng đã làm cán bộ tỉnh, hồi ấy mới khoảng 7 tuổi mà vẫn dám bò qua cầu một mình đi bộ lên Phong Diên thăm ông bà ngoại và nhờ cậu cắt tóc, bởi vùng ấy, thời ấy không có thợ cắt tóc như bây giờ. Mà cậu thì vốn đa năng, không giỏi nhưng cấy chi cũng biết. Ông bà khen, các cậu, dì đều khen nức nở: thằng ni gan thật.
Năm 1969, sau khi Bác Hồ mất, với tinh thần biến đau thương thành hành động cách mạng, huyện Thanh Chương cũng như xã Thanh Phong đều huy động thanh niên đi làm các công trình thủy lợi lớn phục vụ quốc kế dân sinh. Chúng tôi được huy động đi xây công trình thủy lợi đập Cầu Cau ở Thanh An, nay là hồ Đảo Chè, một thắng cảnh đẹp đang thu hút nhiều khách du lịch đến từ các vùng miền trong cả nước. Tiếp đà cách mạng tiến công, xã Thanh Phong cũng mở công trình xây dựng đập Cầu Làng, bằng cách đào một khúc hói mới uốn dòng chảy và làm cầu bê tông kiên cố rộng khoảng 2,5m, chặn dòng chảy của con hói cũ, phá cầu khỉ. Từ đây quê nhà như bước sang trang mới. Cuộc sống, sự đi lại của người dân quê tôi đã được đổi đời. Đập nước dâng cao gần chục mét, nước trong xanh 4 mùa đủ tưới cho cả mấy cánh đồng làng tốt tươi màu mỡ. Người xe đi lại thuận tiện, trâu bò qua lại dễ dàng, đặc biệt các em nhỏ tới trường học không phải bò qua cầu tre lắt lẻo hàng ngày nữa. Tôi nhớ anh cán bộ kỹ thuật của phòng Thủy lợi huyện về trực tiếp chỉ đạo thiết kế và thi công tên là Hân, người mảnh khảnh, da hơi đen, có cặp mắt sáng và đặc biệt rất nhiệt tình, trách nhiệm và sâu sát. Anh quê đâu thì tôi cũng không rõ. Ngày nay ai đi qua Cầu Làng nhìn xuống thấy một khúc con hói cũ bị ngăn dòng vẫn còn dấu tích. Sau đập Cầu Làng, anh Hân còn giúp xã tôi xây đập Cơn Ớt để phục vụ tưới tiêu cho đồng Rai Rái và mấy cánh đồng khác, mà trước đây phụ thuộc nước nông giang lấy từ Ba ra Đô Lương. Dân quê tôi vẫn không bao giờ quên hình ảnh thân thương và tình cảm, sự đóng góp của anh đối với xã nhà.
Cũng nhờ có cầu, có đập thủy lợi mà cuộc sống của người dân quê tôi ngày càng khởi sắc, không còn là vùng đất “tứ tắc” như ngày xưa nữa. Mỗi lần đi qua cầu thấy các chị các cô gái dưới cầu giặt áo, gội đầu hong tóc, cười nói râm ran, các em nhỏ nô đùa bơi lội trên dòng nước mát cảm thấy quê hương thật thanh bình yên ả. Mặc dù thời chiến tranh, lại thời kỳ làm ăn tập thể nên kinh tế vẫn nhiều thiếu thốn.
Bước sang thế kỷ 21 con đường liên xã xưa được quy hoạch và nâng cấp lên thành Quôc lộ 7B nối đường Quốc lộ 46 chạy qua xã nhà, lên Minh Sơn, Tân Sơn băng qua Quốc lộ 7A chạy ra Yên Thành, Diễn Châu. Đây là dự án lớn của nhà nước. Đường được nắn lại và mở rộng, Cầu Làng bằng bê tông xưa cũ được thay bằng cây cầu hiện đại bề thế lớn hơn rất nhiều, 4 làn thì chưa được nhưng 2 làn thì ô tô chạy thoải mái. Đường được đắp cao, cầu cũng xây cao nên không còn bị lũ lụt ngập như trước nữa. Mỗi khi về quê, trước đây đường khúc khuỷu lầy lội, nay xe cứ chạy bon bon một mạch về tận nhà thật là biết bao sung sướng.
Nhớ lời bài hát của Giáp Văn Thạch phổ thơ Đỗ Trung Quân: “Quê hương là chùm khế ngọt, cho con trèo hái mỗi ngày” sao mà nồng nàn da diết. Con em Thanh Phong dẫu học tập, công tác hay làm ăn khắp 4 phương trời vẫn luôn nhớ về quê hương, nơi quê cha đất tổ với những kỷ niệm đẹp đẽ thân thương và tình đất tình người sâu nặng./.
Viết theo lời hẹn với bạn Trịnh Xuân Ngũ khi được đọc bài thơ của bạn ấy trên trang “Quê Nhà Thanh Phong”. Cảm ơn bạn Ngũ và các bạn rất nhiều!
TP Vinh 2/4/2022
Quang Lê tức Lê Quang Đạo. Trước nhà ở xóm 6B nay là xóm 5, dưới chân rú Bạc, phía trong Cây Sui lịch sử.
Thứ Tư, 5 tháng 10, 2022
KÝ ỨC TUỔI THƠ: CƠN DA BA CHÁNG CHÍN CHỒI
KÝ ỨC TUỔI THƠ: CƠN DA BA CHÁNG CHÍN CHỒI
“Cơn da ba cháng chín chồi
Ai về Diên Thọ cạp cồi lồ ngô”.
Câu ca xưa nói về một thời khốn khó như vẫn còn văng vẳng. Quê tôi cây đa người ta thường gọi là cơn da. Cây đa ở quê tôi ngày xưa nhiều lắm, thường là cổ thụ cành lá sum suê, được trồng ở đầu làng, cuối xóm hay bên cầu bên hói. Nhưng nay thì hầu hết đã bị chặt phá, một số do quá già rồi cũng tự hủy theo quy luật tự nhiên Sinh – Trụ - Hoại – Diệt. Còn cây đa ba cháng chín chồi này là cây đa ở xóm Diên Thọ, thuộc làng Diên Tràng, xã Thanh Phong quê tôi hiện nay vẫn còn, nó cách cây Sui lịch sử khoảng 300m về phía tây. Nó có ba cành lớn mọc ra từ đoạn trên gốc, từ ba cành lớn đó mỗi cành lại mọc ra ba chồi nữa nên gọi là ba cháng chín chồi. Còn những cành con kế tiếp thì nhiều vô kể. Cái này thì hoàn toàn chính xác bởi tôi có hai bà O ruột lấy chồng về xóm này, nên hồi còn nhỏ tôi đã từng đến tận nơi xem và đếm. Chuyện về hai bà O tôi sẽ kể tiếp đoạn sau.
Xóm Diên Thọ ngụ trên một quả đồi thấp dưới chân Rú Trè thơ mộng. Xóm tuy nghèo nhưng người dân siêng năng, cần cù chất phác, chịu khó làm ăn. Nhiều người giỏi và thành đạt, tiêu biểu như Cố Phan nhà cách mạng lão thành, đảng viên 30 - 31, ông Nguyễn Bá Thụ, nguyên Cục trường Cục Kiểm lâm Việt Nam, hồi đương chức được lên truyền hình VTV suốt. Hồi Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930 – 1931, khi Đảng CSVN mới thành lập, Tỉnh ủy Nghệ An đã đóng ở đây, cây Sui lịch sử là nơi cất dấu tài liệu, nhà thờ họ Nguyễn Ích, Nguyện Duy là nơi văn phòng làm việc, hội họp và in ấn tài liệu. Những địa chỉ ấy nay đều là Di tích lịch sử cấp Quốc gia.
Nói về con người nơi đây có câu vè:
“Nguyên Ngợn, Khoa Cư, Kỹ sư Mạo Bé”.
Nguyên Ngợn thì tôi không rõ lắm, sau này tìm hiểu thì được biết ông nổi tiếng vì mát tay, mỗi khi đi chợ các bà bán lợn bán gà đều nhờ ông sờ đầu vuốt đuôi để bán được nhanh và đắt khách. Cứ mỗi lần đến chợ họ nhìn thấy ông là nhờ “lại sờ cho tui một cấy”, ông mần liền, sau khi bán được họ lại tặng mấy đồng để ông ăn quà. Nhiều người trêu ông bảo ông sướng, vừa được sờ vừa được quà, ông cười tít mắt.
Còn Khoa Cư là nói về chú Nguyễn Ích Khoa con ông Chắt Cư, chú là em trai dượng Cư tôi. Chú đẹp trai, thông minh học giỏi, có mái tóc mây bồng bềnh trông rất lãng tử. Hồi đầu những năm 60 của thế kỷ trước chú đã thi đỗ và học Đại học Y khoa Hà Nội sau làm bác sĩ Quân y đi chiến trường. Hồi đó mà đã đi học đại học ở Hà Nội là hiếm lắm, hơn nữa lại là học bác sĩ. Quê tôi có nhiều gái đẹp, nhiều cô mê chú, nhưng cuối cùng chú cưới cô Chư con ông Cu Thi. Nhà ông Cu Thi có nhiều con gái, bà đầu sinh 7,8 cô đều trắng trẻo nõn nà. Ông cưới thêm bà hai vần mãi rồi cũng đẻ được một cậu con trai. Cô Chư đẹp người đẹp nết, sau đi ngành lương thực cũng là một ngành hót thời bao cấp. Sau giải phóng 1975 cô theo chồng vào Nam và hiện cả nhà định cư ở Sài Gòn.
Còn Mạo Bé là nói về anh Mạo con ông Cu Bé. Ông Cu Bé người to khỏe, da đen trũi, gân bắp cuồn cuộn, ông làm nghề kéo cưa, ông ăn khỏe có tiếng, chắc cái nghề này nó phải vậy, ăn ít sức yếu không kéo cưa được. Hồi đó gỗ hiếm, trong làng trong xã ai có cây to muốn xẻ ván làm nhà đều phải qua tay ông. Vợ mất sớm, ông ở vậy nuôi con. Anh Mão cũng khỏe, da cũng đen như bố, học giỏi. Cũng ra Hà Nội học đại học sau chú Khoa vài năm, sau tốt nghiệp kỹ sư rồi làm việc ở ngoài đó luôn. Chuyện vợ con của anh tôi cũng không rõ lắm.
Xóm Diên Thọ gần trung tâm xã, xã tôi lại thuộc vùng đất tứ tắc, bốn bề rào hói bao quanh nên hồi chiến tranh có nhiều cơ quan sơ tán về đây, trong có có cơ quan Ủy ban Kế hoạch Nhà nước tỉnh, ty Thương binh Xã hội... Bởi vậy mà xã tôi thường hay có chiếu phim, có khi có cả văn công về phục vụ. Tôi còn nhớ rõ có lần Đoàn văn công Ca Múa Nhạc về biểu diễn mấy đêm liền, xã phải cắt cử người trực phòng không, khi nghe tiếng máy bay từ xa phải đánh trống báo động để mọi người biết tản ra trú ẩn. Máy bay đi xa, đánh trống báo yên, văn công lại tiếp tục biểu diễn. Trong đoàn có nhiều cô rất trẻ và rất xinh, lại hát hay múa dẻo làm cho trai làng tôi nhiều anh bị “say nắng” xem xong trên đường về bàn tán xôn xao. Sáng mai ngủ dậy đã thấy mấy anh lấp ló đi qua đi lại trước cổng những nhà có văn công đóng, ý chừng là muốn xem mặt, coi mắt. Chắc đêm qua xem văn công về các anh khó ngủ.
Nói đến Diên Thọ mà không nói đến Cố Nguyên, nghệ nhân làm nơm của xóm thì hơi khiếm khuyết. Nhà cố cách cây đa ba cháng khoảng dăm chục mét. Cố có tài làm nơm, nơm cố hình trấy bần, vừa đẹp vừa bền. Nguyên liệu làm bằng tre hóa, vành bằng cành cây quỳnh châu. Ai muốn mua nơm phải đặt tiền cọc trước cả tháng. Sở dĩ nơm cố đắt khách một phần vì nó đẹp và chất, một phần nữa nghe làng đồn là may cá. Cố có anh con trai là Nguyễn Duy Ba làm chủ nhiệm HTX Phong Diên, thời kỳ xã tôi có bốn hợp. Nhà cố cũng gần với nhà cố Cu Cảnh tài săn bắt mà tôi đã kể ở mấy bài trước.
Giờ nói về hai bà O của tôi. O chị là O Hạnh lấy dượng Nguyễn Ích Niên. O dượng đều đi công trường tận trong Vĩnh Linh, giáp vĩ tuyến 17. Hồi chiến tranh phá hoại, Mỹ leo thang ném bom bắn phá miền Bắc, O đưa con sơ tán về quê, còn dượng vẫn phải bám trụ vừa công tác vừa chiến đấu cho đến khi nghỉ hưu. O dượng sinh được hai trai hai gái, hiện nay có anh Dương con trai trưởng định cư ở thị trấn Quỳ Hợp, về hưu làm thêm nghề xay xát nên kinh tế cũng khá vững. Còn O em là O Đỉnh lấy dượng Chắt Cư, cũng người họ Nguyễn Ích. Dượng Cư tôi khá khéo tay. Hồi mới đến tán O tôi mỗi khi đến chơi dượng thường làm sẵn một con diều con cỡ to hơn bàn tay kèm một đoạn dây tặng tôi. Được tặng diều tôi mừng lắm, liền kéo theo thằng em bé xíu chạy ngay ra ngõ thả, để mặc O dượng nói chuyện thoải mái. Không chỉ tặng diều mà dượng còn hay cắt tóc cho tôi nữa. Dượng cũng hay làm các việc giúp đỡ ông bà tôi. Tôi còn nhớ dượng làm cho bà nội tôi cái khung để đèn hoa kỳ rất đẹp, có đế gỗ và hai thanh thép bảo vệ chắc chắn, thêm cái ngoắc treo. Hai bên chụp đèn được bảo vệ bằng 2 cái lò xo nên chụp giữ được rất lâu, ít bị rơi vỡ. Bà tôi thích lắm. Giờ thì các O dượng tôi đã là người thiên cổ. Chú Hùng con trai làm ăn cũng khá. Vườn rộng trồng chè chuối và nhiều loại cây ăn quả. Trong chuồng có gần chục con hươu nên hàng năm bán lộc nhung cũng kiếm được hàng trăm triệu.
Xóm Diên Thọ xưa nghèo khó là vậy, ăn ngô khoai sắn quanh năm, thời đang còn hợp tác xã mỗi ngày công cũng chỉ được dăm ba lạng thóc. Không ít nhà mới sáng mùng một tết đã thấy vào rày nhổ sắn về ăn. Nay nhờ cơ chế đổi mới, lại thêm tính cần cù chịu khó, nên không chỉ chú Hùng em tôi mà nhiều nhà đã mở ra hướng làm ăn mới, chung vốn làm trang trại, mở ốt kinh doanh buôn bán, làm dịch vụ, cho con đi lao động nước ngoài, v.v.. nên đời sống đã khá lên rất nhiều. Đường làng ngõ xóm được mở rộng phong quang sạch sẽ, nhà cửa khang trang, nhiều nhà xây được nhà tầng, xe máy, điện thoại di động, ty vi đời mới, tủ lanh, bếp ga có cả, có nhà còn sắm được cả ô tô nữa.
Câu ca: Cây đa ba cháng chín chồi/ Ai về Diên Thọ cạp cồi lồ ngô.
Đã thực sự lùi vào dĩ vãng./.
Quang Lê (tức Lê Quang Đạo)
ĐÌNH LÀNG AI CÒN NHỚ
Đình làng ai còn nhớ?
Đình làng là nơi thờ Thành Hoàng làng, những bậc có công với làng với nước, là nơi sinh hoạt cộng đồng, nơi làm việc của các chức sắc, nơi vui chơi giải trí, hội họp của dân làng, là thiết chế văn hóa quan trọng ở các làng quê xưa, nhất là vùng bắc bộ và trung bộ. Đình làng cũng là nơi làng mở hội mỗi khi tết đến xuân về. Hình ảnh cây đa giếng nước sân đình đã ăn sâu trong ký ức của bao thế hệ. Đình làng còn là nơi chứng kiến bao cuộc chia tay tiễn trai làng lên đường ra trận. Có thể nói Đình làng là linh hồn là bộ mặt của các làng quê thời phong kiến đã đi váo thơ ca nhạc họa một thời.
Có ai đó từng viết:
“Những chiều Trường Sơn núi rừng cô quạnh
Mẹ hiền ơi con chợt nhớ quê mình
Khói lam chiều giàn mướp lá lên xanh
Con bướm nhỏ, mái đình xưa nhớ quá”.
Trong dân gian truyền tụng câu ca:
“Toét mắt bởi tại hướng đình
Cả làng toét mắt riêng mình em đâu”.
Câu ca dao đã cho thấy vị trí và tầm quan trọng của đình làng. Hướng đình, theo quan niệm dân gian không chỉ ảnh hưởng tới sự giàu nghèo, thịnh suy của làng mà còn ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân cư trú trong làng ấy. Có nhiều chuyện kể hay về đình còn lưu lại đến ngày nay. Chuyện kể lại rằng thầy Địa lý Tả Ao quê làng Tả Ao, Nghi Xuân, Hà Tĩnh, (trước là Nghệ An) đã từng lấy hướng đình và chỉnh sửa hướng đình cho nhiều vùng quê để làng thịnh vượng, giàu có, phát triển, học hành đô đạt… như làng Hành Thiện, Xuân Trường, Nam Định, hay đình làng Nam Trì ở xã Đặng Lễ, Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.v.v..
Chuyện kể làng Hành Thiện vốn được ở trên một thế đất đẹp, nhiều người học giỏi, nhưng chưa có ai đỗ đạt. Một lần Cụ Tả Ao đi qua, xem xét và nói với mấy người dân nơi đây là có thể chỉnh sửa phong thủy để làng phát khoa bảng, làm quan. Dân làng mừng lắm liền báo với các cụ Thủ chỉ thành tâm sắm lễ nhờ cụ giúp đỡ, cụ bảo thế đất làng này như một con cá đang bơi ra biển nhưng cá không có mắt, và đã chỉ cho làng vị trí đào một cái giếng gần đình làng, gọi là giếng mắt cá, giếng đào xong nước trong vắt, ngọt và mát. Sau đó làng đã có nhiều người đỗ đại khoa, tiến sĩ, phó bảng, nhiều người làm quan to. Thế mới có câu “Bắc Hà Hành Thiện, Hoan Diễn Quỳnh Đôi”
Với đình làng Nam Trì, cũng có lần cụ tình cờ đi qua thấy thế đất Phượng Hoàng Hàm Thư rất đẹp, cụ bảo nếu lấy hướng đình làng cho chuẩn thì làng này sẽ có nhiều người đỗ đạt, đường khoa hoạn sẽ được mơ rộng. Dân làng nhờ cụ và cụ đã chỉnh sửa hướng đình cho làng, sau khi chỉnh sửa không lâu làng đã phát khoa bảng, phát quan to. Văn có Tiến sĩ, Võ có Quận công. Dân làng mừng lắm, tôn cụ làm thành hoàng làng và xin lập sinh từ, tức lập đền thờ cụ ngay khi cụ vẫn còn sống.
Nghệ Tĩnh cúng là đất văn vật, nơi được mệnh danh là địa linh nhân kiệt cũng từng có rất nhiều đình chùa đẹp như đình Hội Thống, Nghi Xuân, đình Hoành Sơn, đình Trung Cần ở Nam Đán, đình Võ Liệt ở Thanh Chương.v.v.. nhưng hầu hết đều đã bị triệt hạ.
Quê tôi xã có 4 làng đều mang những cái tên rất đẹp: Thanh Bang, Phú Thọ, Diên Tràng, Hòa Mỵ. Sau đổi tên là Phong Bang, Phong Phú, Phong Diên, Phong Hòa.
Bốn làng có 4 ngôi đình nhưng tôi nhớ đình làng Thanh Bang nay gọi là Phong Bang là to đẹp và bề thế hơn cả. Các đình này hiện nay không còn nữa vì đã bị phá hủy từ sau cải cách và từ những năm đầu xây dựng hợp tác xã để phần thì xoa bỏ tàn tích phong kiến, bài trừ mê tín dị đoan, phần để lấy vật liệu làm kho, làm trụ sở, cửa hàng, trường học. Xung quanh chuyện phá dỡ đình cũng không ít những chuyện bi hài đã xẩy ra. Nếu có điều kiện tôii sẽ kể sau.
Với thế hệ tôi thì những ấn tượng sâu sắc vè đình làng vẫn còn hằn sâu trong ký ức với những kỷ niệm đẹp đẽ. Tôi nhớ một kỷ niệm nhỏ nhưng khó quên khi tôi còn tuổi thiếu niên với đình làng Phú Thọ. Đó là dịp đại hội đảng bộ xã, tôi được anh Lê Văn Hạnh phụ trách thiếu nhỉ đưa tôi cùng bạn Lê Văn Hỉ, sau cải tên là Huy, đi biểu diễn văn nghệ chào mừng đại hội. Nói biểu diễn cho oai vạy thôi nhưng chúng tôi chỉ hát có hai bài. Chúng tôi băng qua bàu Dì theo đường bờ quai cơn Trai, đây là đường tắt tuy hơi khó đi nhưng gần. Chúng tôi đi qua cổng nhà anh Cảnh Mậu con ông Lý Tụy, nhà anh Thục con ông Đồ Diện, đi tiếp gần cây số đến đình làng. Đại hội đang họp..Sau lời giới thiệu, anh Hạnh dẫn tôi và bạn Hỉ tiến lên sân khấu. Tôi hồi hộp mang cây đàn Măng-rô cùng bạn Hỉ tiến lên. Chúng tôi biểu diễn 2 tiết mục, tôi đánh đàn còn bạn Hỉ đơn ca bài GIẢI PHÓNG MIỀN NAM và bài VỪNG TRỜI ĐÔNG. Chúng tôi hát xong cúi chào, đại hội vỗ tay. Một bác lên cám ơn. Biểu diễn xong ba anh em chúng tôi lại băng qua Bàu Dì theo đường bờ quai đi về nhà.
Kỷ niệm nhỏ nhưng tôi nhớ mái và xem đó là một trong những kỷ niệm có ý nghĩa gắn với đình làng của tuổi thơ tôi và thế hệ chúng tôi. Còn với các bạn thì sao? Đình làn và những kỷ niệm. Ai còn nhớ xin kể tiếp.
Quang Lê tức Lê Quang Đạo
Ký ức tuổi thơ: BÀU DÌ NHIỀU TÔM CÁ
Thanh Phong quê tôi nhiều đồi núi, chia khắp cả bốn làng. Tuy vậy cũng có 2 cái bàu khá to và nổi tiếng. Đó là Bàu Dì và Bàu Rò.
Dân gian có câu: "Trọng chi mi, trọng bàu Rò rạch Giám".
Đó là muốn nói những nhà có ruộng tốt ở hai vùng ấy, bàu Rò và rạch Giám. Ruộng tốt đến mức không bao giờ phải phân tro vẫn cho năng suất cao. Nếu bón thêm phân thì lúa tốt quá sẽ bị dộp. Bàu Dì rộng hơn bàu Rò rất nhiều. Cá tôm cua ốc trai cũng nhiều hơn. Cả 2 bàu này đều thuộc dân làng Phú Thọ quản lý canh tác. Xã có bốn làng: Phú Thọ, Diên Tràng, Thanh Bang, Hòa Mỵ. Những năm 60 của thế kỷ XX đổi tên Phú Thọ thành Phong Phú, Diên Tràng thành Phong Diên, Thanh Bang thành Phong Bang, Hòa Mỵ thành Phong Hòa. Làng Phú Thọ (tức Phong Phú), có nhiều xóm như Đông Phượng, Đông Tỉnh, Đông Lĩnh, Đông Mỵ, Đông Thanh, Đông Thọ và xóm Độn. Nhà tui thuộc xóm Đông Phượng. Tất cả các xóm đều quần tụ quanh bàu Dì và bàu Rò.
Nhớ quê lại nhớ câu ca:
"Ai về Phú Thọ mà coi.
Bắc cơm lên bếp xách oi ra bàu".
Quả vậy, khi nhà có khách chỉ cần xách oi ra đồng một lúc là có thể kiếm được bữa tươi ngon lành tiếp đãi. Nào tôm nào cá, cua ốc ếch... nhưng dễ kiếm nhất vẫn là cua, ốc, trai. Không cần nơm vó hay te rứa nhủi chi hết. Chỉ cần tay không vẫn bắt được cả giỏ. Chả vậy mà mấy bà mấy dì đi cấy khi đi mặc mấn (váy) dài ngang bắp chưn, khi về bà mô bà nấy lận trong lưng mấn mấy vòng tất cả những gì bắt được như tôm, cá, ốc, cua, trai... đến mức mấn kéo lên gần ngang bẹn, để lộ cặp giò trắng phau nần nẫn, khiến các bà các dì khi xuống ao rửa chân không dám cúi thấp mà chỉ khỏa qua qua, vì sợ quân con nít ngồi câu trên bờ tọc mạch. Về nhà kêu con tháo ra được cả một chậu đầy. Cá tôm thì kho tương, kho khế, trai ốc xào chuối xào măng hay nấu dấm. Cua đem rang với lá tắt, hoặc giã vắt lấy nước nấu canh rau, hay dấm chuối, dấm mùng. Bã dùng cho gà ngan vịt lợn... thời đói kém người làng sống nhờ những món này. Trẻ con lớn lên khỏe mạnh cũng nhờ những món này. Các cô gái xinh đẹp da trắng hồng, tóc dài đen mượt mắt sáng long lanh cũng nhờ những món này cả. Mặc dù trong mỗi bữa ăn khoai sắn thường nhiều hơn cơm.
Hai bàu này không bao giờ khô nước. Hết mùa thu hoạch rảnh thời gian mọi người lại ùa xuống bàu kiếm tôm kiếm cá. Mùa rét bắt cá cóng. Mùa nóng bắt cá say nắng. Giữa rốn bàu còn có mấy cái đìa như đìa cố Giảng, đìa cố Sửu, đìa cố Hoe Đoan có rất nhiều cá, nếu đắp cửa đìa tát có khi bắt được những con cá tràu cá gáy nặng một đến hai kg. Thỉnh thoảng còn bắt được rắn, trăn, kỳ đà nữa. Bàu tuy sâu nhưng vãn cấy được hai vụ lúa, vụ đông xuân cấy lúa chiêm và vụ thu hè cấy lúa ba tháng. Vụ mùa không cấy được vì lụt. Khoảng từ tháng 7 âm lịch đến tháng 12 âm lịch bàu để không, mọi người nơm vó thoải mái, chỉ trừ mấy cái đìa là thuộc sở hữu cá nhân, nhưng khi vắng chủ bọn trẻ vẫn a lê hấp nhào xuống nơm trộm.
Bàu Dì có hai cái bờ quai, được thanh niên trống dong cờ mở đắp từ thời mới thành lập hợp tác xã để bà con đi làm đồng cho tiện, đỡ phải đi vòng. Một cái đi qua Cơn Mưng sang cồn Độn, bàu dưới vẫn gọi bàu Dì, bàu trên gọi bàu Mưng; một đi qua Cơn Trai sang tận cửa nhà ông Lý Tụy. bàu dưới vẫn gọi bàu Dì, bàu trên gọi là bàu Trai. Cái bờ quai này hơi trái nẻo nên dân ít đi hơn.
Lứa bọn tôi hồi nhỏ cứ đi học về, cất sách vở là kêu nhau xách nơm xách oi xuống bàu. Tôi cũng thuộc loại may cá nên chẳng bao giờ về không. Mẹ tôi lại khéo tay chế biến. Bởi vậy nhiều khi ăn không hết thì nướng, phơi khô để mùa lụt ăn, loại muối làm mắm tôm mắm tép ăn dần. Mắm này không phải ai cũng biết làm, phải là người khéo tay và chịu khó mới làm được. Muốn ngon phải có thính gạo rang, măng vòi, ớt vỏ quýt hay vỏ tắt thì mới dậy mùi. Nhiều bữa mẹ không nấu cơm mà nấu bánh đúc chấm với mắm tự chế ăn rất ngon, hương vị quê nhà đậm đà nhớ mãi.
Quê ta có nhiều món ăn ngon. Bánh mướt, bánh đúc chấm mắm tôm mắm tép cũng là một trong số đó.
Bàu Dì nắm dưới chân rú Nhôn rú Quạ. Không hiểu từ đâu mà trong dân gian vẫn truyền nhau câu sấm:
"Nhôn Sơn nhất giải.
Huyệt tại Vòi Voi.
Thiên hạ đến coi.
Thượng thư phát mãi".
Có người đọc là: Nhôn sơn cửu đỉnh, huyệt tại vòi Voi.
Nhôn sơn tức Rú Nhôn thì đã rõ. Còn huyệt tại Vòi Voi thì ở chỗ nào chả ai biết. Cũng chưa thấy dòng họ nào quanh đây có "Thượng thư phát mãi". Có người bảo Vòi Voi là núi Voi béo và núi Voi con cũng thuộc xã Thanh Phong nhưng ở bên kia Rào Gang, gần xã Nhân Sơn, mấy năm nay thuộc quân đội quản lý. Lại có người bảo vòi Voi là vùng bàu ông Voi nằm phía tây bắc Rú Nhôn.
Huyệt quý, có hay không? Đến nay vẫn chưa ai biết./.
Quang Lê. (tức Lê Quang Đạo)
Ký ức tuổi thơ: BÀU DÌ NHIỀU TÔM CÁ
Ký ức tuổi thơ: BÀU DÌ NHIỀU TÔM CÁ
Thanh Phong quê tôi nhiều đồi núi, chia khắp cả bốn làng. Tuy vậy cũng có 2 cái bàu khá to và nổi tiếng. Đó là Bàu Dì và Bàu Rò.
Dân gian có câu: "Trọng chi mi, trọng bàu Rò rạch Giám".
Đó là muốn nói những nhà có ruộng tốt ở hai vùng ấy, bàu Rò và rạch Giám. Ruộng tốt đến mức không bao giờ phải phân tro vẫn cho năng suất cao. Nếu bón thêm phân thì lúa tốt quá sẽ bị dộp. Bàu Dì rộng hơn bàu Rò rất nhiều. Cá tôm cua ốc trai cũng nhiều hơn. Cả 2 bàu này đều thuộc dân làng Phú Thọ quản lý canh tác. Xã có bốn làng: Phú Thọ, Diên Tràng, Thanh Bang, Hòa Mỵ. Những năm 60 của thế kỷ XX đổi tên Phú Thọ thành Phong Phú, Diên Tràng thành Phong Diên, Thanh Bang thành Phong Bang, Hòa Mỵ thành Phong Hòa. Làng Phú Thọ (tức Phong Phú), có nhiều xóm như Đông Phượng, Đông Tỉnh, Đông Lĩnh, Đông Mỵ, Đông Thanh, Đông Thọ và xóm Độn. Nhà tui thuộc xóm Đông Phượng. Tất cả các xóm đều quần tụ quanh bàu Dì và bàu Rò.
Nhớ quê lại nhớ câu ca:
"Ai về Phú Thọ mà coi.
Bắc cơm lên bếp xách oi ra bàu".
Quả vậy, khi nhà có khách chỉ cần xách oi ra đồng một lúc là có thể kiếm được bữa tươi ngon lành tiếp đãi. Nào tôm nào cá, cua ốc ếch... nhưng dễ kiếm nhất vẫn là cua, ốc, trai. Không cần nơm vó hay te rứa nhủi chi hết. Chỉ cần tay không vẫn bắt được cả giỏ. Chả vậy mà mấy bà mấy dì đi cấy khi đi mặc mấn (váy) dài ngang bắp chưn, khi về bà mô bà nấy lận trong lưng mấn mấy vòng tất cả những gì bắt được như tôm, cá, ốc, cua, trai... đến mức mấn kéo lên gần ngang bẹn, để lộ cặp giò trắng phau nần nẫn, khiến các bà các dì khi xuống ao rửa chân không dám cúi thấp mà chỉ khỏa qua qua, vì sợ quân con nít ngồi câu trên bờ tọc mạch. Về nhà kêu con tháo ra được cả một chậu đầy. Cá tôm thì kho tương, kho khế, trai ốc xào chuối xào măng hay nấu dấm. Cua đem rang với lá tắt, hoặc giã vắt lấy nước nấu canh rau, hay dấm chuối, dấm mùng. Bã dùng cho gà ngan vịt lợn... thời đói kém người làng sống nhờ những món này. Trẻ con lớn lên khỏe mạnh cũng nhờ những món này. Các cô gái xinh đẹp da trắng hồng, tóc dài đen mượt mắt sáng long lanh cũng nhờ những món này cả. Mặc dù trong mỗi bữa ăn khoai sắn thường nhiều hơn cơm.
Hai bàu này không bao giờ khô nước. Hết mùa thu hoạch rảnh thời gian mọi người lại ùa xuống bàu kiếm tôm kiếm cá. Mùa rét bắt cá cóng. Mùa nóng bắt cá say nắng. Giữa rốn bàu còn có mấy cái đìa như đìa cố Giảng, đìa cố Sửu, đìa cố Hoe Đoan có rất nhiều cá, nếu đắp cửa đìa tát có khi bắt được những con cá tràu cá gáy nặng một đến hai kg. Thỉnh thoảng còn bắt được rắn, trăn, kỳ đà nữa. Bàu tuy sâu nhưng vãn cấy được hai vụ lúa, vụ đông xuân cấy lúa chiêm và vụ thu hè cấy lúa ba tháng. Vụ mùa không cấy được vì lụt. Khoảng từ tháng 7 âm lịch đến tháng 12 âm lịch bàu để không, mọi người nơm vó thoải mái, chỉ trừ mấy cái đìa là thuộc sở hữu cá nhân, nhưng khi vắng chủ bọn trẻ vẫn a lê hấp nhào xuống nơm trộm.
Bàu Dì có hai cái bờ quai, được thanh niên trống dong cờ mở đắp từ thời mới thành lập hợp tác xã để bà con đi làm đồng cho tiện, đỡ phải đi vòng. Một cái đi qua Cơn Mưng sang cồn Độn, bàu dưới vẫn gọi bàu Dì, bàu trên gọi bàu Mưng; một đi qua Cơn Trai sang tận cửa nhà ông Lý Tụy. bàu dưới vẫn gọi bàu Dì, bàu trên gọi là bàu Trai. Cái bờ quai này hơi trái nẻo nên dân ít đi hơn.
Lứa bọn tôi hồi nhỏ cứ đi học về, cất sách vở là kêu nhau xách nơm xách oi xuống bàu. Tôi cũng thuộc loại may cá nên chẳng bao giờ về không. Mẹ tôi lại khéo tay chế biến. Bởi vậy nhiều khi ăn không hết thì nướng, phơi khô để mùa lụt ăn, loại muối làm mắm tôm mắm tép ăn dần. Mắm này không phải ai cũng biết làm, phải là người khéo tay và chịu khó mới làm được. Muốn ngon phải có thính gạo rang, măng vòi, ớt vỏ quýt hay vỏ tắt thì mới dậy mùi. Nhiều bữa mẹ không nấu cơm mà nấu bánh đúc chấm với mắm tự chế ăn rất ngon, hương vị quê nhà đậm đà nhớ mãi.
Quê ta có nhiều món ăn ngon. Bánh mướt, bánh đúc chấm mắm tôm mắm tép cũng là một trong số đó.
Bàu Dì nắm dưới chân rú Nhôn rú Quạ. Không hiểu từ đâu mà trong dân gian vẫn truyền nhau câu sấm:
"Nhôn Sơn nhất giải.
Huyệt tại Vòi Voi.
Thiên hạ đến coi.
Thượng thư phát mãi".
Có người đọc là: Nhôn sơn cửu đỉnh, huyệt tại vòi Voi.
Nhôn sơn tức Rú Nhôn thì đã rõ. Còn huyệt tại Vòi Voi thì ở chỗ nào chả ai biết. Cũng chưa thấy dòng họ nào quanh đây có "Thượng thư phát mãi". Có người bảo Vòi Voi là núi Voi béo và núi Voi con cũng thuộc xã Thanh Phong nhưng ở bên kia Rào Gang, gần xã Nhân Sơn, mấy năm nay thuộc quân đội quản lý. Lại có người bảo vòi Voi là vùng bàu ông Voi nằm phía tây bắc Rú Nhôn.
Huyệt quý, có hay không? Đến nay vẫn chưa ai biết./.
Quang Lê. (tức Lê Quang Đạo)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)