Kỳ môn độn giáp bí kíp toàn thư
Tựa
Bộ Kỳ Môn Độn Giáp này tương truyền là của hai vị tiên sinh Trương Tử Phòng và Gia Cát Lượng làm ra bí kíp. Ở trong nói về hành quân xuất trận cho đến chiêm nghiệm ẩn độn mọi việc, không việc gì là không có ứng nghiệm, bởi vì Trương Tử Phòng được Hoàng Thạch Công chân truyền, phò Hán Cao Tổ xuất sư và điền thành tổng cục 18 cách mà thành công quyết thắng. Thục Khổng Minh từ Long Trang ra, phò nhà Thục Hán, giúp Tiên đế chia bá thiên hạ. Những thần cơ diệu toán của ngài không gì không có căn cứ vào Tam Kỳ Cửu Cung. Không vì đời xa năm thẩm, sách vở sai biệt mà Lưu Bá Ôn tiên sinh sưu tập mọi bí kíp san định thành sách mà có thể xem tóm được hết. Cho đến nay, những nhà xuất bản khác bản đã lấy ngoa truyền, sai ngoa, dù tý chút hào lý mà mất đi ngàn chân lý. Nay Kế Cổ Tô chủ nhân kiếm được bí bản nguyên khắc giao cho làm bản in đó, hiệu đính lại tinh tường, hào lý không sót, xứng đáng mà bộ sách để bên gối đầu.
Dân quốc năm thứ 3 Giáp Dần, đấu thu.
Tiên Đường Hồng Bảo Vinh cẩn thức.
KỲ MÔN ĐỘN GIÁP
TÔNG TỰ
________________
(Lời tựa)
________________
(Lời tựa)
Trộm thấy khi Hoàng đế đánh nhau với Suy Vưu ở Trác Lộc, mộng được thần trời trao truyền bùa phép, bèn sai Phong hậu diễn ra kỳ môn. Độn giáp có từ đó.
Đế Nghiêu sai Đại Vũ đi trị thủy, được Huyền Nữ truyền cho văn thư, mà nhận rùa thiêng sông Lạc. Lưng mang 9 trù. Độn giáp được xếp thành từ đó.
Hán Tử Phòng gom thành 18 cục mà thành công quyết thắng.
Thục Khổng Minh chia ra 3 Kỳ mà sáng được nghiệp gian nan.
Trước bày 9 cung trên bàn tay, cung Khảm ở 1, Khôn ở 2, Chấn 3, Tốn 4, Trung ương 5, Kiền 6, Đoài 7, Cấn 8, Ly 9 mà hình thành tạo hóa.
Rồi chia 8 quái trên bàn: Ly vị ở Nam, Khảm vị ở Bắc, Chấn Đông, Đoài Tây, Tốn Đông Nam, Khôn Tây Nam, Cấn Đông Bắc, Kiền Tây Bắc mà định được 4 phương 4 góc. Ngang dọc thành số 15, mà làm 3 Nguyên.
Lấy bát quái chia 8 tiết mà tiết lệnh được toàn. Lấy 1 tiết thông 3 Khí mà khí hậu đầy đủ. Gặp Giáp Kỷ là Phù đầu, phải có kỳ nhuận để bố cục. Phù nhanh tiết chậm thì xét Giáp Kỷ đến nơi nào mà dùng phép Siêu thêm, Tiết trước Phù sau thì nghiệm xem nhật thần Giáp Kỷ ở đâu để đặt phương tiết khí.
Từ Tý đến Ngọ thuộc mặt Đông, là sau khí Đông chí, tính Độn dương trải qua các cung Khảm Cấn Chấn Tốn. Nghi đi thuận mà Kỳ đi nghịch, do trực Phù bay thuận trên 9 cung.
Từ Ngọ đến Tý thuộc mặt Tây, là sau Hạ chí, tính Độn âm, trải qua các cung Ly Khôn Đoài Kiền. Kỳ bày xuôi mà Nghi bày nghịch, do Trực phù bay nghịch trên 8 quái.
Nhận 9 cung, yên 9 tinh, làm Trực phù mà cát hung chia được. Như cung Khảm nhận Thiên Bồng làm Phù, thì Thiên nhuế ở 2, Thiên Xung 3, Thiên Phụ 4, Thiên Cầm 5, Thiên Tâm 6, Thiên Trụ 7, Thiên Nhậm 8, Thiên Ương 9.
Phối 8 quái, dựng 8 Môn làm Trực Sử mà phán được dở hay (hưu cữu). Như cung Kiền phối Khai là Trực Sử, thì Hưu môn ở Khảm, Sinh môn ở Cấn, Thương Môn ở Chấn, Đỗ môn ở Tốn, Cảnh Môn ở Ly, Tử môn ở Khôn, Kinh môn ở Đoài.
Rồi Trực Phù theo can giờ, mà can giờ trọ trong nơi Trực Phù khởi đầu.
Tìm Trực Sử ở Chi giờ mà Chi giờ trọ trên phương Trực Sử.
Thiên Bàn 9 tinh, cộng Kỳ Nghi, mỗi giờ mỗi đổi là tượng giờ chuyển tròn.
Địa Bàn 9 tinh với Kỳ Nghi, cứ 5 ngày thì rời. Đạo Đất trinh tĩnh là đó.
Thiên Bàn tới Địa, xét được cát hung mòn nở. Địa bàn thừa Thiên đoán được hay dở đầy vơi (hưu cữu danh hư).
- Giáp Tý thiên Giáp Tý địa là phục ngâm. Hễ thấy Môn Phù đầu trên bản cung, đều theo lệ này, và không dùng làm gì được.
- Thiên Ương Đất gặp Thiên Bồng Trời (Thiên Anh gia ly 9) là Phản Ngâm. Hễ thấy Môn trên cung xung, đều theo lệ này, nên lánh đi thì hơn.
- Cát môn tới 3 Kỳ, mọi việc cầu đều vừa ý.
- Kỳ môn vào Mộ, cố mà làm cũng không thành.
- Ất Bính Đinh, Sinh Hưu khắc hợp với thái Âm, đó gọi là Tam Toàn (đủ ba). Kỳ cát, Âm hoặc thiếu một, thì xem phương sau lưng, thế gọi là nhị kỳ (hai kỳ).
- Lục Nghi kích hình (sáu Nghi đâm đánh) thật là rất ác, không dùng làm gì được.
- 9 Độn mà hợp Môn thì rất lợi, làm được rất nhiều.
- Khai môn hợp với Ất, ở trên ngôi Kỷ, không phạm Kỳ vào Mộ, Môn bị bách gọi là Địa Độn, ở Ngôi Tử Vi, được Tinh Nhật che chở.
- Nguyệt kỳ ở trên Đinh gặp Sinh môn, không phạm Kỳ mộ, Môn bách gọi là Thiên Độn, che Hoa Cái (lọng hoa), được Tinh Nguyệt che chở.
- Môn Hưu và Kỳ Đinh, hợp với Thái Âm, cùng một địa bàn, gọi là Nhân Độn, cũng có thể ra quân.
- Kỳ Bính cùng Sinh môn, hợp Cửu Thiên là Thần Độn.
- Tinh Kỳ gặp Hưu môn là Quỷ Độn.
- Long Độn thì Nguyệt Kỳ hợp Hưu Quý, hoặc trên Khảm.
- Hổ Độn thì Ất Kỳ tới Sinh môn, hoặc ra ở Cấn.
- Phong Độn thì Nhật Kỳ Khai môn, tới cung Tốn.
- Vân Độn thì Nguyệt Kỳ Khai môn, hợp ở Thân (Khôn).
Đây là 9 Độn danh, nhà binh đem dùng không gì nghiệm và không thấy ứng.
Tinh có Âm Dương, Môn có mở Khép, duy Thiên Cầm không có định vị, thuộc trung cung mà gởi ở Tây nam.
Tòng Tam tị ngũ (theo 3 tránh 5) là hại, là sinh.
- Đất thắng có 3: Trực phù trời lâm Thiên Ất. Đại tướng nên đóng đấy là 1.
Sau Trực phù 1 cung là Cửu thiên, quân ta nên đóng đấy là 2, cửa Sinh (cung Cấn) địa bàn hợp với cung Tam kỳ. Nên dẫn quân từ cửa Sinh đánh sang cửa Tử thì trăm chiến trăm thắng, đấy là 3.
- Không kích được có 5: cung Thiên Ất, Cửu Thiên mà kích tất chịu ương vậy, đó là 1 và 2.
Sinh môn Cửu Địa mà phạm, tất chịu hại ấy, đó là 3 và 4.
Trực phù mà tới cùng Trực sử, dụng binh mà đột vây thúc trận nơi ấy thì tướng chết quân tan, đó là 5.
Giờ Mạnh Giáp mà hình Môn, nơi ấy không thể ra vào, chỉ nên ẩn tích.
Giờ Trọng Giáp, Dương ở trong, chỉ nên giữ vững, lợi sự tàng binh.
Giờ Quý Giáp, Âm ở trong Dương ở ngoài, nên chia chủ khách rồi quyết thư hùng.
Sáu Ất là Thiên Đức, ra nơi đó mà tiến đến Nhật kỳ, có thể quyết thắng lúc nào (khả quyết thắng ư vị nhiên chi nội).
Sáu Bính là Thiên Uy, ví không là thời lửa Bính nấu Kim, thì nên phóng bại ở khi không chắc chắn.
Giờ tới Sáu Đinh, gọi là Ngọc nữ tiềm hình (người ngọc ẩn hình), ẩn nấp không thấy dấu vết.
Giờ tới Sáu Mậu gọi là Thừa Long vạn Lý (cưỡi rồng muôn dặm), gặp hung đồ mà chúng trốn sạch.
Sáu Kỷ là địa hộ (ngõ đất), nên làm ngầm, dùng trộm cắp.
Sáu Quý là Thiên Cương (vó trời), xét cao thấp cho lợi việc trốn.
Sáu Canh mà ra trận, lầm lỗi tới nơi tướng soái.
Sáu Tân mà ra quân, tai họa tất tới bản thân.
Sáu Nhâm là Thiên Lao, họa bay đến gấp.
Sáu Giáp là đầu giờ, ứng vào cục rất linh.
- Sáu Giáp trên Sáu Bính là Thanh Long phản thủ (rồng xanh ngoái cổ) mọi việc làm đều không trở ngại.
- Sáu Bính trên Giáp là Phi điểu điệt huyệt (chim bay về tổ), việc làm gấp sẽ thành.
- Ất trên Tân là Thanh Long đào tẩu (rồng xanh chạy trốn) mà tài vật rơi mất.
- Tân trên Ất là Bạch Hổ xương cuồng (hổ trắng kêu rống) mà thân thể hủy thương.
- Đinh trên Quý là Chu tước đầu giang (Sẻ son lao sóng) mà kiện tụng tù ngục dấy lên.
- Quý trên Đinh là Đằng xà yêu kiều ( rắn bay uốn éo) thì lo sợ tất đến.
- Sáu Canh trên Phù là Phục cung (cung nép), không lợi cho Chủ mà lợi cho Khách.
- Trực phù trên Canh là Phi cung cách (cách cung bay) không quý ở chiến mà quý ở mưu (Trực phù trên Canh là Trực phù gia địa bàn Canh hay Giáp gia Canh).
- Canh trên Trực phù là Thái Bạch cách Thiên ất phục, binh ngoài tới xâm mà chủ tướng tất bại.
- Trực phù trên Sáu Canh là Thái Ất cách Thái Bạch (hay Thiên Ất phi), cố ra quân mà tướng khách làm ngăn trở.
- Trực Sử tới Canh, gọi là Dã chiến (chiến ngoài đồng), binh tuy tinh nhuệ mà mắc khốn.
- Canh trên Trực Sử tên gọi đồng cung (cùng cung), tướng tuy kiêu mà không toại chí.
- Canh trên Sáu Bính đó là Thái Bạch nhập Huỳnh hoặc (sao Kim vào sao Lửa), thì giặc tất đến.
- Bính trên Sáu Canh, đó là Bính Hỏa nhập Kim hương (Lửa Bính vào quê Kim) thì giặc tất rút lui.
Cách này Chủ Khách đều không lợi, đừng có ỷ vào việc thấy được Kỳ Môn mà cố dùng.
- Thiên Địa Đại cách (cách Trời Đất lớn) là dưới Canh có Quý.
- Thiên Địa Tiểu cách (cách Trời Đất nhỏ) là trên Nhâm có Canh.
- Canh trên Kỷ, quân lính chết ở dọc đường.
- Kỷ trên Canh, tướng binh mắc ách ở đường nguy.
- Tuế cách là khi Tuế gặp Canh.
- Nguyệt cách là Canh trên ngày Sóc kiến.
- Canh tới Can ngày là cách Phục can (can nép) thì chủ nhân gặp thương.
- Can ngày trên Canh là Phi Cung cách (cách cung bay) thì tướng khách không thắng.
- Can giờ khắc Nhật là Ngũ bất Ngộ (5 không gặp) thì mất sáng!
- Bính trên can ngày gọi là Bột Loạn (Trái loạn) thì kỷ cương điên đảo.
- Trời có 3 Môn: Thiên xung, Tiểu cát, Tòng Khôi. Đất có 4 hộ là trong tháng gặp Trừ, Nguy, Định, Khai.
- Trực sử giao nhau là Thiên Ất có ở đó.
- Giờ Trực tới nơi là hành cung của Thiên Ất.
- Trực phù ấy cùng với Thiên Ất, có nạn, nên bỏ.
- Môn theo Thần sau 1 cung là Cửu Thiên, sau 2 cung là Cửu Địa. Đất có Cửu thiên lợi việc dương binh. Dưới cung Cửu Địa lợi việc phục binh.
- Trước 3 cung là Lục Hợp, 2 cung là Thái Âm. Trong Lục Hợp trốn lánh là lợi. Đất Thái Âm đặt Phục rất nên.
- Phương Tam Trá ( ba dối), cử động đều lợi, đó là Hưu, Sinh, Khai hợp Ất, Bính, Đinh, Cửu Địa, Thái Âm mà thế.
- Đất Ngũ Giả (5 giả) đều có cát hung. Đó là Đỗ Tử Kinh Thương Cảnh, hợp Cửu Địa, Thái Âm, Ất, Bính, Đinh, Kỷ, Quý mà nên.
Như sáu Mậu là thuật không chắc, Sáu giáp có diệu âm phù (bùa âm), đó là tâm giác đạo không có lời truyền. Có chí về nước yên dân, ra làm Tướng quân, vào làm Tướng tể không thể không biết được. Ô hô! Chia Trời Đất ở trên tay nắm 81 (9x9=81 bước đi của Cửu tinh), la liệt các tinh tú ở trong dạ. Gió sấm theo từng hơi thở. Thần quỷ nghe theo chỉ huy. Văn bí ở nơi kho Trời nhà Bá để toán thần vận trù quyết thắng ư!
Năm Đại sinh Hồng Vũ thứ 4, tháng ,
Ngày 8 tề tựu
Lưu Cơ bá Ôn cầu thúc./.
Chào anh,
Trả lờiXóaem rất thích về kỳ môn
mong anh hướng dẫn cách lập thiên địa 2 bàn cho ngày 02/09/2014(al 09/08/2014) giờ Quý Tị âm độn 7 cục tiết xử thử, thanks.
Nhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóa