Thứ Hai, 22 tháng 8, 2016

Phương pháp làm sạch Quan Sát hỗn tạp



Bốn, Phương pháp làm sạch Quan Sát hỗn tạp
Quan Sát hỗn tạp thì hẳn phải là lưu chỗ hỉ mà khử đi chỗ ác, còn phải chú ý lực lượng cường nhược. Chính Quan lúc lực lượng cường, thỉ phải lưu Chính Quan mà khử đi Thất Sát; Thất Sát lúc lực lượng cường mạnh, thì phải lưu Thất Sát mà khử đi Chính Quan. Cũng có thể không khử đi Chính Quan, vì Thất Sát có khí cương cường, không sợ hỗn.

Phương pháp khử lưu là: Dụng thần ở trên thiên can đến trừ khử thần tàng ở trong can, có Chính Quan lưu Chính Quan; có Thất Sát lưu Thất Sát. Có lúc Quan Sát đều ở trên thiên can, Hoặc quan Sát đều ở trên địa chi, thì phải là xem khinh trọng, lưu trọng mà khử khinh.
Quan Sát hỗn tạp lúc quyết định khử lưu, còn phải chú ý nhật can âm dương: nhật can là Dương thì khử Sát lưu Quan; nhật can âm lúc có Thương quan, thì phải khử Quan lưu Sát. Thông thường mà nói: Thiên can dễ khử, địa chi khó khử. Phương pháp làm sạch Quan Sát hỗn tạp có ba loại Chế, Hóa, Hợp.

1, Chế:
Thực thần là dụng thần khắc chế Thất Sát rất là đắc lực, 《 Kế Thiện thiên 》nói: "Nhất Sát làm loạn, độc Thực có thể bắt." Ở trong mệnh cục lấy Chính Quan làm dụng thần, tạp lấy Thất Sát, có Thực thần khắc chế Thất Sát, tất nhiên quan cao tước hiển; nếu lấy Thất Sát là dụng thần, tạp lấy Chính Quan, có Thương quan khắc chế Chính Quan, mặc dù có thể có địa vị cao, nhưng không có lực phát đạt; không có chế phục, không có khử lưu thì tất là mệnh bần tiện. Nhất là Quan Sát cường vượng mà thân nhược, càng cần phải có chế phục. Nếu Thực thần và Thương quan cũng cùng thấy, Thực thần có lực thì khử Sát, Thương quan có lực thì khử Quan. Sát cường thân nhược, cũng có thể dụng Thực thần chế Sát, tất phải cần chú ý vị trí Thực thần ở trong mệnh cục, phải không có Tài tiết Thực trợ Sát, không có Kiêu Ấn đoạt Thực là mới được, hết sức cố gắng tránh khắc tiết giao gia.
Thực thần chế Sát chỉ có thể một chế một, nếu như chỉ có một vị Thất Sát, mà có đến hai vị Thực thần ở trên, đây gọi là "Chế thái quá", có mệnh thư gọi là " Pháp tận vô dân" .
Thực thần lúc chế Sát còn phải chú ý nhật nguyên là can âm hay là can dương. Can dương cần nhật nguyên cường vượng; can âm không sợ Sát vượng, chỉ cần có Thực chế. Lúc dụng Thực chế Sát, ở trên thiên can thì không thể lộ Tài thấu Ấn, Tài có thể sinh Sát, Ấn có thể đoạt Thực hộ Sát. Sát dụng Thực chế, quý ở trung hòa: Sát khinh trợ Sát, Thực khinh trợ Thực.
Lúc có Thực thần chế Sát thì không nên thấy Thiên Ấn, Kinh nói: "Thực thần phùng Kiêu, không bần cũng yểu." Thấy Thiên Ấn có thể dụng Thiên Tài để giải. Thực thần chế Sát thái quá, cũng có thể dụng Thiên Ấn để giải.
Ở trong mệnh cục xung và chế không thể cùng ở một chỗ, có chế thì không thể gặp xung, có xung thì sẽ mất đi hiệu quả chế.

2, Hóa:
Quan Sát chính là nguyên thần của Ấn tinh, Quan Sát khắc thân có thể dụng Ấn để hóa giải, khiến cho đạt đến Quan Sát sinh Ấn, Ấn sinh thân, đem mâu thuẫn chuyển hóa, biến bất lợi thành có lợi.
Lúc thân nhược Quan Sát cường, nên dụng Ấn hóa, hóa tốt hơn so với chế. Bởi vì thân nhược bị Quan Sát khắc, lại dụng Thực Thương, tất nhiên là Khắc Tiết giao gia, mệnh càng nguy khốn. Nếu như dụng Ấn để hóa Quan Sát, vừa có thể hóa Quan Sát lại có thể sinh thân, nhất cử lưỡng tiện. Ấn còn có thể chế ác thần Thương quan của Chính Quan. Nhất là lúc Thất Sát cường nên dụng Ấn hóa. Kinh nói: "Lấy đủ hình phạt, không bằng lấy đức để cảm hoá."
《 Kế Thiện thiên 》nói: "Chúng Sát hoành hành, nhất nhân khả hóa."
Quan Sát đều hỉ Ấn. Chính Quan gặp Ấn gọi là Chính Quan bội Ấn, còn gọi là Quan Ấn song toàn, là mệnh phú quý. Có Quan có Ấn mới là chân Quan, có Quan không có Ấn, là hư danh hư lợi. Mệnh chân Quan định là công minh liêm chính, học thức uyên bác. Thất Sát gặp Ấn là có thể hóa thành quyền lực, phát huy uy lực càng lớn. Kinh nói: Sát không có Ấn là không có văn chương, Ấn không có Sát thì không uy vũ, Sát Ấn song toàn, công danh hiển đạt. Nhật chủ thân nhược có Ấn thụ, làm cho Quan Sát hỗn tạp, cũng không phải hung mệnh. Thân nhược không có Ấn, rất sợ Quan Sát hỗn tạp. Dụng Ấn hóa Sát, không kỵ Chính Quan. Dụng Tài sinh Quan, tối kỵ Thất Sát.
Quan Sát lúc cường vượng, có thể cùng dụng đồng thời chế và hóa; lúc Quan Sát nhược, không nên cùng dụng chế hóa, còn phải dụng Tài để sinh Quan Sát nhược. Ở trong mệnh cục chế và hóa lúc đồng thời xuất hiện, như hóa nhược chế cường, thì sẽ không đủ thi ân, lại kết thành oán hận; như hóa cường chế nhược, thì sẽ thành tính ỷ lại, bản thân không có năng lực.

3, Hợp:
Nhật chủ thân nhược, Thất Sát thấu cường, vừa không có Thực chế, lại không có Ấn hóa, có thể sử dụng biện pháp hợp mà khử đi. 《 Kế Thiện thiên 》nói: "Quan tinh Thất Sát giao soa, lại lấy hợp Sát là quý." Thất Sát là hung thần, hợp khử Thất Sát là quý mệnh. Chính Quan là hỉ thần, hợp khử Chính Quan là mệnh tiện, còn gọi là Tham hợp vong Quan. Nhưng ở dưới tình huống Quan Sát hỗn tạp, khử lưu là làm cho mệnh cục thanh thuần, đối với Chính Quan cũng có dụng biện pháp hợp khử, đây cũng là bất đắc dĩ mà làm, nhưng thứ tầng cách cục tất nhiên là hạ thấp nhiều.
Lúc dụng phương pháp hợp, cũng phải chú ý nhật chủ là âm hay dương. Nhật can âm là Thương quan, chỉ có thể khử Quan, không thể hợp Sát; nhật can âm Thương quan vừa có thể khử Quan, vừa có thể hợp Sát, Chính Quan kề gần thì có thể khử Quan, Thất Sát kề gần thì hợp Sát. Nhật can dương Thực thần là có thể khử Sát, lại có thể hợp Quan, nhưng Quan không hỉ hợp, định là tổn quý, Thất Sát kề gần thì khử Sát, Chính Quan kề gần thì hợp Quan. Ngày Âm Thực thần chỉ có thể khử Sát, mà không thể hợp Quan. Thực thần nếu hợp Ấn, Ấn thụ tham hợp vong sinh, tất không dụng chiếu cố nhật chủ. Còn có phép tự hợp như: Giáp Ngọ, Nhâm Ngọ, Tân Tị …
Chính Quan sợ hợp, hợp Chính Quan còn phải xem hợp thần cường hay nhược, hợp thần cường, Chính Quan bị thần cường hợp sẽ ảnh hưởng. Hợp thần đi theo Chính Quan là mệnh tốt. Nếu như có gặp Chính Ấn và Chính Tài cùng can khác tương hợp mà không chiếu cố đến Chính Quan, thì gọi là Cô Quan vô phụ. Chính Quan còn kỵ can ở bên ngoài hợp nhật can, nếu không sẽ thành phá cách. Chính Quan kỵ xung, Chính Quan phùng xung gặp hợp thì có thể tiêu giải, cũng gọi là "Tham hợp vong xung" . Quan xung không hợp, thì trở thành mệnh phiêu bạc.
Thất Sát có thể cùng Kiếp tài, Dương Nhận, Thương quan tương hợp. Thất Sát lúc cùng Dương Nhận tương hợp, uy vũ cương cường, kiến công lập nghiệp. Kinh nói: "Sát không có Nhận không hiển, Nhận không có Sát không uy, Sát Nhận tương đình (bằng nhau), địa vị đến vương hầu." Lại nói: "Sát là uy mãnh, Nhận là vũ khí, độc Sát Nhận cường, là mệnh tướng soái." Nhật can dương Thất Sát hội cùng can Kiếp tài hợp. Nhật can âm Thất Sát hội cùng can Thương quan hợp. Lúc can hợp nhiều thì lại thành cừu địch.
Lúc Sát Nhận tương hợp, Sát khinh Nhận trọng hỉ trợ Sát, Quan vận không có ngại. Sát trọng Nhận khinh, cần Quan chế Nhận, không có Thực Thương càng tốt, nhưng hành Quan vận lại có hại. Nếu Thực Thương trọng, tất nhiên tiết Nhận lại tổn thương Sát.
Quan Sát hỗn tạp ở trong mệnh cục không có cách nào khử lưu làm sạch, cũng có thể ở trong vận trình hành vận giúp cho hóa giải. Bởi vì hành vận vừa có thể thành cách, cũng có thể phá cách.
Khắc xung hình hại không nhất định có thể đạt đến mục đích làm sạch. Ví dụ như khắc, lực lượng bị khắc không nhất định tiêu mất toàn bộ. Hình, có quá hình quá vượng, còn có thể có mở khố. Bởi vậy, phương pháp làm sạch chỉ có ba loại kể trên, phương pháp lý tưởng là tốt nhất.

Năm, Tác dụng thực tế của phương pháp làm sạch Quan Sát hỗn tạp

Chỗ trình bày phương pháp làm sạch Quan Sát kể ở trên, thực ra vẫn là xem xét mệnh cục thứ tầng cao thấp, phương pháp phán đoán người bần phú quý tiện. Ví dụ như vấn đề khử lưu, cũng không phải là đem Quan Sát bỏ đi, mà ở trong mệnh cục lại không còn tồn tại, chỉ là đem Quan Sát có thực, xem thành là có thực hư vô, phép này cũng không phải là phương pháp cải vận, giờ sinh bát tự của mỗi người là bẩm sinh mà có, bất kể người nào cũng đều không thể thay đổi. Tác dụng phương pháp kể trên hẳn phải là:
1, Đề cao tỷ suất chuẩn xác phán đoán khi dự trắc. Người nhận thức đúng tình huống, làm cho nghiên cứu mệnh lý học tiến vào một tầng thứ mới.
2, Khổng Tử nói: “Không biết mệnh thì không thể là quân tử”. Muốn đạt đến người biết mệnh, thì hiểu rõ thời thế mới là người tài giỏi, nắm chắc vận mệnh của bản thân, thuận thế mà làm, lượng sức mà đi, ít đi đường vòng, ít bị gãy ngã, không nên trở thành đầy tớ của vận mệnh, mà nên trở thành chủ nhân của vận mệnh.
3, Việc xu cát tị hung, đề phòng lúc chưa xảy ra. Chớ nên làm chuyện không đáng làm, chớ nên đi chỗ không nên đi, làm được thân thể an toàn, gia đình an khang vui vẽ.