Khảm long Khôn thỏ, Chấn sơn hầu; Tốn kê, Kiền mã, Đoài xà đầu;
Cấn hổ, Ly chư, vi sát diệu;
Trạch, mộ phùng chi, nhất thời hưu
Trên đây là cái sát hàng đầu, mọi cái ác, rất kỵ về việc tạo táng
Khảmlong: Người ta thường gọi là: bát sát chỉ có 8 cái phương
sát; Thìn và Tuất 2 thủy lai, đều kỵ cả. Khôn long kỵ Mão thủy lai; Chấn long
kỵ Thân thủy lai; Tốn long kỵ Dậu thủy lai; Kiền long kỵ Ngọ thủy lai; Đoài
long kỵ Tị thủy lai; Cấn long kỵ Dần thủy lai; Ly long kỵ Hợi thủy lai; Mão
long chỉ có 1 sát (kỵ 1 thôi)
Còn về chọn ngày tạo mệnh, thì ở năm, tháng, ngày, giờ kỵ dụng
Ví dụ như: Khảm sơn thì kỵ Mậu Thìn, Mậu Tuất. Khôn sơn kỵ Ất Mão; Chân sơn
kỵ Canh Thân; Tốn sơn kỵ Tân Dậu; Kiền sơn kỵ Nhâm Ngọ; Đoài sơn kỵ Đinh Tị;
Cấn sơn kỵ Bính Dần; Ly sơn kỵ Kỷ Hợi. Đó đều do ở hào quan quỷ của hỗn thiên
ngũ hành phạm sát. Nên tạo táng hay sữa chữa mộ ở phương đó cả 2 việc: trước
hết đem thái tuế của năm vào trung cung, tiến theo chiều thuận phi luân chuyển;
sau lấy nguyệt kiến của tháng và ngày giờ phi ra 9 cung, như gặp Quý Tị, Quý
Hợi của năm tháng ngày giờ vào trung cung, thì Mậu Tuất, Mậu Thìn đến nhất
bạch, không nên sữa chữa ở cung Khảm và tạo táng ở Khảm sơn.
Nếu gặp Kỷ Dậu niên, Kỷ Dậu nguyệt, Kỷ Dậu nhật, Kỷ Dậu thời nhập trung
cung, chuyển đến Ất Mão là nhị hắc đáo Khôn sơn thì có thể sửa hay tạo táng ở
Khôn sơn được.
Nếu như Quý Sửu niên hay nguyệt, nhật, thời nhập trung cung phi chuyển tới
Canh Thân, Tân Dậu đáo tam bạch, tứ lục thì không nên tu tạo ở 2 sơn Chấn, Tốn.
Tân Tị niên, nguyệt, nhật, thời nhập trung cung, luân chuyển tới Ngọ là lục
bạch, đáo Kiền thì không nên tu tạo ở Kiền sơn
Quý Hợi niên, nguyệt, nhật, thời vào trung cung, luân chuyển đến Bính Dần là
bát bạch
đáo Cấn thì không nên tu tạo ở Cấn sơn.
Ất Mão niên, nguyệt, nhật, thời nhập trung cung phi chuyển đến Mậu Thìn ở
Nhất Thủy Khảm thì không nên tu tạo. Nếu nhập Thái tuế, Đinh Tị là thất xích
đoài thì không nên tu tạo ở Đoài sơn. Ất Mùi niên, nguyệt, nhật, thời nhập
trung cung phi chuyển đến ở Hợi là cửu tử đáo Ly, thì không thể tu tạo ở Ly sơn
được.
Đó đều là bát sát quy cung, thì quyết
định bách nhật nội, đại sinh hung họa. Rất nên tránh, đó là 8 cung sát nên
cẩn thận chớ phạm vào.
Bài thơ ca về hồn thiên ngũ hành:
Kiền kim, Giáp Tý, ngoại Nhâm Ngọ, Khảm thủy, Mậu Dần, ngoại Mậu Thìn Cẩu
thổ Bính Thìn ngoại Bính Tuất, Chấn mộc Canh Tý Canh Ngọ lâm Tốn mộc Tân
Sửu ngoại Tân vị
Ly hỏa Kỷ Mão Kỷ Dậu tầm Khôn thổ ất Mùi gia Quý Sửu Đoài kim Đinh Tị
Đinh Hợi bình
Nghĩa là: Kiền thuộc kim thì Giáp Tý và Nhâm Ngọ 2 phương 7 cung kia
cũng theo như thế mà suy luận
Không kể chính sát hay bàng sát: chỉ kỵ ở chỗ nạp Giáp, Canh, Thân, Tân, Dậu
đồng phạm với Ất, Mão, Cấn, Dần đồng phạm Nhâm Hợi. Sơn và thủy đều có sát. Sơn
có sơn sát, thủy có thủy sát. Lập hướng gồm kỵ cả. Cho nên thủy hai dòng chảy
lại, nước bên hữu lại thì trưởng tử bại; nước bên tả lại thì con thứ 2 bại;
nước chảy ngang trước mặt thì con thứ 3 bại. Xem nước ở trên mặt ruộng sẽ thấy.
Hướng kỵ:
Khảm long thì kỵ Thìn Tuất hướng, Cấn long thì kỵ Dần hướng
Chấn long thì kỵ Thân hướng, Tốn long thì kỵ Dậu hướng, Ly long thì kỵ
Hợi hướng, Khôn long thì kỵ Mão hướng, Đoài long thì kỵ Tị hướng, Kiền long thì
kỵ Ngọ hướng