Thứ Sáu, 20 tháng 3, 2015

Những điều lý thú chưa biết về ví dặm xứ Nghệ

 Câu hò xứ Nghệ là giai điệu ấm tình quê mà Bác Hồ còn thương nhớ mãi trước lúc đi xa.

Từ xa xưa, Nghệ Tĩnh là miền biên giới cực Nam của Quốc gia Đại Việt. Nơi đây đã hình thành hai vùng văn hoá dân gian mang sắc thái riêng biệt cùng song song tồn tại.
Đó là văn hoá dân gian các dân tộc thiểu số sống rải rác khắp miền Tây rộng lớn (chiếm khoảng 2/3 diện tích tự nhiên toàn Tỉnh) và văn hoá dân gian của người Việt (dân tộc kinh), sống ở miền trung du, đồng bằng và ven biển.
Trong kho tàng văn hoá Dân gian - Dân tộc cổ truyền ấy, thì dân ca là một trong những loại hình tiêu biểu, mang những nét đặc trưng bản địa rõ nhất.
“Điền dã” với dân, đi tìm câu ví dặm
Để xây dựng một nền văn nghệ mới Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta không thể không coi trọng việc sưu tầm, nghiên cứu và phát huy nguồn văn hoá văn nghệ dân gian nói chung, dân ca nói riêng.
Việc này phải được tiến hành một cách khẩn trương cấp bách, bởi vì dân ca chỉ tồn tại đồng thời với sự tồn tại của các nghệ nhân dân gian, mà phần lớn những nghệ nhân đó đều đã ở vào tuổi "xưa nay hiếm" đang gần đất xa trời, nếu không kịp thời khai thác thì e rằng vốn cổ quý báu ấy sẽ đi theo các cụ về thế giới bên kia. Như vậy chúng ta không chỉ có lỗi với cha ông mà còn mắc lỗi với cả con cháu sau này.
Ý thức được điều đó, nhiều thập kỷ qua, các nhà nghiên cứu văn hoá dân gian tỉnh nhà đã có nhiều đợt điền dã khắp các miền quê trong tỉnh để sưu tầm khai thác vốn cổ quý báu đó. Tiêu biểu trong số họ phải kể đến các ông (bà): Ninh Viết Giao, Nguyễn Đổng Chi, Thái Kim Đỉnh, Trần HữuThung...(sưu tầm văn học); Lê Hàm, Đào Việt Hưng, Lê Quang Nghệ, An Thuyên, Hoàng Thọ...(sưu tầm Dân ca); Bích Thu, Trần Nghiên (sưu tầm Mỹ thuật); Lan Phương (sưu tầm múa) ...
Riêng Đoàn Dân ca Nghệ An thì hầu hết các diễn viên và nhạc công đều phân ra từng tốp thực hiện chế độ "3 cùng" với các nghệ nhân dân gian (cùng ăn + cùng ở + cùng học tập - học hát, học múa, học đàn) trong nhiều đợt điền dã, có những đợt" nằm vùng" suốt hơn 3 tháng.
Nhiều tư liệu quý về văn hoá văn nghệ dân gian - dân tộc đã được sưu tập khai thác và sử dụng; nhiều công trình nghiên cứu và thực nghiệm đã được công bố bằng phương tiện in ấn (xuất bán sách và băng đĩa) và bằng công diễn trên sân khấu hoặc trên sóng phát thanh truyền hình…
Xin điểm qua mấy nét cơ bản về dân ca ví dặm để bạn đọc có thể hình dung được phần nào diện mạo của nó.
- Thể hát ví: Ví có nhiều điệu như: ví đò đưa, ví phường vải, ví phường cấy, ví phường võng, ví phường chè, ví đồng ruộng, ví trèo non, ví mục đồng, ví chuỗi, ví ghẹo...
Ví thuộc thể ngâm vĩnh, bằng phương pháp phổ thơ dân tộc ( lục bát, song thất lục bát, lục bát biến thể...).
Ví thường là hát tự do, không có tiết tấu từng khuôn nhịp, người hát có thể co dãn một cách ngẫu hứng. Âm điệu cao thấp ngắn dài có khi còn tuỳ thuộc vào lời thơ (ca từ) bằng hay trắc, ít từ hay nhiều từ.
Tình điệu (tính biểu cảm) thì tuỳ vào môi trường hoàn cảnh, không gian thời gian và tâm tính của người hát. Âm vực của ví thường không quá một quãng 8. Tình điệu ví nghe trang trải mênh mang sâu lắng, bâng khuâng xao xuyến, tha thiết ân tình. Tuy vậy, vẫn có loại ví ghẹo và ví mục đồng nghe dí dỏm hài hước, nghịch ngợm hồn nhiên tươi trẻ.
- Thể hát dặm: Dặm là thể hát nói, bằng thơ ngụ ngôn (thơ / vè 5 chữ), nói cách khác thì dặm là thơ ngụ ngôn / vè nhật trình được tuyền luật hoá. Dặm cũng có nhiều làn điệu như: Dặm kể, dặm cửa quyền, dặm ru, dặm vè, dặm nối, dặm xẩm...
Khác với ví, dặm là thể hát có tiết tấu rõ ràng, có phách mạnh phách nhẹ, có nhịp nội nhịp ngoại.Thông thường một bài dặm có nhiều khổ, mỗi khổ có 5 câu (câu 5 thường điệp lại câu 4), mỗi câu có 5 từ (không kể phụ âm đệm). Tuy vậy, cũng có những bài dặm/ vè không phân khổ rõ ràng, mà cứ hát một lèo, có khi đến hàng chục hàng trăm câu, và mỗi câu cũng không nhất nhất 5 chữ mà có thể 4 hoặc 6,7 chữ (do lời thơ biến thể).
Dặm rất giàu tính tự sự, tự tình, kể lể khuyên răn, phân trần bày giải. Cũng có loại dặm dí dỏm khôi hài, châm biếm trào lộng.Và có cả dặm trữ tình giao duyên.
Môi trường - Không gian và tính chất diễn xướng
Qua tìm hiểu và nghiên cứu về tính chất và môi trường không gian diễn xướng dân ca hò-ví-dặm ta thấy rằng:
1. Hát gắn với không gian và môi trường lao động như: cày cấy, gặt hái, đắpđập đào mương, chăn trâu, cắt cỏ (đồng quê); tung chài kéo lưới, chèo chống thuyền bè (sông nước); hái củi, đốt than, bứt tranh, kéo gỗ, bóc măng (núi non); quay tơ dệt vải, trục lúa, đan lát ( xóm thôn).
2. Hát mang tính du hý vào những dịp Hội hè, Tết nhất, Đình đám, hoặc những đêm trăng thanh gió mát bạn bè giao du thưởng ngoạn, thi thố tài năng ứng tác văn chương chữ nghĩa.
3. Tính giao duyên giữa những lứa đôi trai gái để thổ lộ tâm tình, để gửi gắmniềm thương nỗi nhớ, để kén chọn trai tài gái đảm, tìm bạn trăm năm.
4. Tính tự tình, nghĩa là mượn câu hát để bộc lộ nội tâm. Những nỗi niềm sâu kín, những uẩn khúc cuộc đời, những mảnh tình dang dở, những số liếp long đong, hoặc là để biểu thị sự bất bình xã hội.
5. Tính tự sự. Tức là dùng hình thức kể vè để thuật lại những sự việc xẩy ra trong làng ngoài xã, hoặc kể về một sự tích, một giai thoại nào đó, hoặc muốn biểu dương người tốt việc tốt, hay phê phán những thói hư tật xấu...
6. Tính chất tâm linh. Tức là hát trong khi thờ cúng, tế lễ, cầu vong cầu đồng, phù thuỷ, làm chay làm đàn...
7. Tính giáo huấn. Thông qua câu hát để dạy bày khuyên nhủ người đời về những điều hay lẽ phải, về thuần phong mỹ tục,về đạo lý nhân nghĩa ,tôn sư trọng đạo, tứ đức tam tòng,về lệ làng phép nước, về anh hùng nghĩa khí , ái quốc trung quân...
8. Tính hành nghề (mưu sinh) đối với các phường trò chuyên nghiệp hoá,hoặc ở các gánh hát ca trù, các ông xẩm hát rong và các ông thầy cúng.
9. Tính đa dùng. Nghĩa là nó giàu tính biểu cảm, cùng một cốt nhạc (một làn điệu) có thể chuyển tải được nhiều nội dung văn học, nhiều đối tượng miêu tả, nhiều sắc thái tình cảm. Đây có lẽ là một đặc tính nổi trội của dân ca ví dặm.
10. Tính phổ cập. Hầu như khắp mọi miền quê, trai gái trẻ già ai ai cũng có thể hát được.

Bảo tồn & phát huy Dân ca xứ Nghệ
- Chúng ta cần phải bảo tồn các điệu hát nguyên gốc, phục hồi các hình thức diễn xướng cộng đồng, đó là cách bảo tồn không gian môi trường hát dân ca xưa (hát trên sông nước, trên ruộng đồng, trên núi non, trong thôn xóm & trong nhà.
-Kế thừa & phát triển bằng hình thức "bình cũ rượu mới", nghĩa là dùng nguyên xi các làn điệu cũ rồi soạn lời mới có nội dung hiện thực, phản ánh cuộc sống sôi động phong phú và hào hùng của nhân dân ta như: Ngô khoai tranh đấu, Thần sấm ngã, Trước lúc lên đường, Dâng Người câu ví Thành Sen, Đẹp lắm quê mình, Hành hương về quê Bác, Xứ Nghệ quê tôi, Vững một niềm tin...
-Phát triển bằng ca khúc mới, tức là lấy chất liệu dân ca rồi phát triển thành những ca khúc mới mang hơi thở và nhịp sống hiện đại. Ta có thể kể ra hàng loạt những ca khúc nổi tiêng được đông đảo công chúng ưa thích như: Xa khơi, Đào công sự, Chào em cô gái Lam Hồng, Cô dân quân làng Đỏ, Câu hò trên đất Nghệ an, Tiêng hát sông Lam, Trông cây lại nhớ đến Người, Từ làng Sen, Đêm nghe hát đò đưa nhớ Bác, Giữa Mạc tư Khoa nghe câu hò xứ Nghệ, Lời Bác dặn trước lúc đi xa, Khúc tâm tình người Hà Tĩnh, Người đi xây hồ Kẻ gỗ, Hương cau vườn Bác, Về hôi làng Sen, Ân tình xứ Nghệ, Xứ Nghệ quê tôi...
-Phát triển bằng hình thức sân khấu hóa (dân ca kịch) .
Qua hàng chục năm nghiên cứu và thể nghiệm, với hàng chục vở lớn nhỏ, đủ các thể loại (Bi - hài - hùng) như : Không phải tôi, Khi ban đội đi vắng, Cô gái sông Lam, Đầu bến sông, Hoa đất, Trắng hoa mai, Vụ án kỳ lạ, Đốm lửa núi Hồng ... Đến vở Mai thúc Loan (1985), kịch hát dân ca Nghệ Tĩnh đã nghiễm nhiên trở thành một thành viên mớí trong đại gia đình kịch hát dân tộc Việt Nam.

Từ đó đến nay Kịch hát Nghệ Tĩnh lại tiếp tục dàn dựng nhiều vở nổi tíêng khác và đã được tặng nhiều Huy chương vàng-bạc tại Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp. Chính từ cái nôi dân ca kịch này đã nẩy nở nhiều tài năng nghệ sĩ, trong đó có NSND Hồng Lựu, các NSƯT: Song Thao, Xuân Năm, Đức Duy, Danh Cách, Đình Bảo, Lệ Thanh, Tiến Dũng, Hồng Năm, An Phúc, Minh Tuệ, Hồng Dương, Thanh Toàn …
Như vậy, rõ ràng dân ca ví dặm đã có bước phát triển về chất, đó là sự chuyển hoá từ hình thức ca hát dân gian, đến ca nhạc chuyên nghiệp, rồi ca kịch sân khấu.

Ở đây chúng ta cũng cần biết thêm rằng, dân ca thuần tuý thường chỉ tồn tại trong môi trường diễn xướng dân gian, nhưng khi ta đưa dân ca vào ca kịch thì trước hết phải sân khấu hoá dân ca - bởi khi đó hát là hành động, là nội tâm, là tính cách của nhân vật.
Do yêu cầu nội tại của kịch, ngoài việc ứng dụng các làn điệu gốc, còn phải sáng tạo thêm nhiều "làn điệu " mới (đa dùng hoặc chuyên dùng) mang âm hưởng ví dặm, cấu trúc theo khúc thức dân gian, lời hát theo các thể thơ dân tộc, và phải biểu đạt được tâm trạng và tích cách nhân vật.
Một loạt làn điệu mới như: Giận mà thương, Hát khuyên, đại thạch, tứ hoa, xẩm thương, xẩm chợ, một nắng haisương, tình sâu nghĩa nặng, em giữ lời nguyền, khóc cha, cuộc đời nổi trôi, ai cứu chàng...(thể hát mang tâm trạng); các điệu: Con cóc, xoay xở, lập lờ, lập loè, đi rao, đèo bòng, khen Thầy tài, to gan, uất ức, bướm say hoa, chồng chềnh, lòng vả lòng sung...(thể hát nói-tính cách); hoặc như: Vào hội đông xuân, đứng thẳng người lên, gốc lúa quầng trăng, cha ơi ngồi dậy mà xem, hỡi công nông binh, hò vượt sông...(thể hát gây không khi sôi nổi hào hùng)…

Có thể nói các làn điệu mới sáng tạo bổ sung đã phần nào thoả mãn được những đòi hỏi cấp bách của công cuộc sân khấu hoá dân ca xứ Nghệ, qua sự sàng lọc của thời gian, nhiều làn điệu đã trở thành "bài tủ" không thể thiếu trong các vở diễn.
Từ những điều lý thú về câu ví dặm, lại thấy được rằng cái đúng đắn của câu "Học xưa vì nay, học cũ để làm mới". Câu hò ví dặm đã thực sự phục vụ cuộc sống đương đại, chứ không chỉ dừng lại ở hình thức bảo tồn thuần tuý, mặc dầu bảo tồn vốn cổ cũng hết sức cần thiết.
Từ dân ca cổ truyền, chúng ta cần tiếp tục bảo tồn nguyên bản, lập hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận là di sản thế giới cần bảo vệ. Mặt khác chúng ta cũng cần phát triển sự nghiệp sân khấu hóa ví dặm mạnh hơn nữa, nhằm tạo ra những sản phẩm tinh thần mới, không ngừng thoả mãn nhu cầu thưởng thức ngày càng cao hơn, phong phú hơn của công chúng, góp phần xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
  • Nhạc sĩ Thanh Lưu
    (Nguyên trưởng đoàn dân ca Nghệ Tĩnh)

GIẬN MÀ THƯƠNG (NGUYỄN TRUNG PHONG; DÂN CA NGHỆ TĨNH)



GIẬN MÀ THƯƠNG (NGUYỄN TRUNG PHONG; DÂN CA NGHỆ TĨNH)
Khi em giận, anh vỗ về xin lỗi
Sợ u buồn làm lệ ướt mi em
Anh vẫn biết em chiều mưa sớm nắng
Giận thật nhiều nhưng vẫn cứ thương thôi !
Bài hát Giận Mà Thương đã được phổ biến rộng rãi và được hiểu là dân ca Nghệ Tĩnh. Thật ra không phải như vậy. Vào khoảng thập niên 60, Nghệ An có phong trào cải biên, phát triển và thể nghiệm dân ca. Những bài hát cải biên, phát triển thể nghiệm dân ca này được người dân ưa thích và được gọi là các làn điệu dân ca mới. Một trong những người chủ trì quan điểm dân ca như trên là ông Nguyễn Trung Phong, Phó trưởng Ty Văn hóa Nghệ An lúc đó. Ông là tác giả kịch bản, rất say sưa với việc đưa dân ca Nghệ Tĩnh lên sân khấu để thể hiện những đề tài hiện đại. Ở Nghệ An lúc đó, tuy chưa nhập với Hà Tĩnh thành một tỉnh, nhưng dân ca vẫn gọi là dân ca Nghệ Tĩnh.
Bài hát Giận Mà Thương sinh ra trên đất Diễn Bình, huyện Diễn Châu vào năm 1967. Trước đó, đội văn nghệ xã Diễn Bình đã dàn dựng vở dân ca "Không phải tôi", tác giả là anh Nguyễn Trung Giáp, lúc đó là Chủ nhiệm Hợp tác xã nông nghiệp Diễn Bình. Trong dịp một vị thứ trưởng Bộ Văn hóa về thăm Diễn Bình, đội văn nghệ xã biểu diễn chiêu đãi vở dân ca ấy. Vị thứ trưởng rất thú vị và khen rất hay. Sau đó, đội văn nghệ xã đi biểu diễn tại Hội nghị của tỉnh. Đoàn văn công tỉnh lấy vở này dàn dựng thành tiết mục chuyên nghiệp. Sau này đi dự liên hoan văn nghệ toàn quốc, vở kịch đã thành công tốt đẹp. Xưởng phim truyện miền Bắc Việt Nam quay thành bộ phim sân khấu dân ca.
Tiếp theo vở "Không phải tôi", đội Văn nghệ Diễn Bình dàn dựng vở "Khi ban đội đi vắng" của tác giả Nguyễn Trung Phong. Vở này nói lên tinh thần đấu tranh để xây dựng ý thức làm chủ hợp tác xã. Cuộc đấu tranh diễn ra giữa một cặp vợ chồng. Người chồng là lao động chính muốn lợi dụng khi ban đội đi vắng để buôn một chuyến chợ Lường (tức chợ Đô Lương). Người vợ kiên quyết không đồng ý và ngăn lại. Người chồng hiểu lầm và rất giận vợ. Người vợ phải phân trần, thanh mình lại với chồng.
Lúc này, sự biểu hiện của người vợ trên sân khấu bế tắc, vì trong các làn điệu dân ca nguyên gốc không đủ sức chứa đựng tâm trạng, kịch tính như mong muốn. Ông Nguyễn Trung Phong trực tiếp dàn dựng vở diễn, đêm nằm không ngủ, cứ lẩm nhẩm sáng tác một bài để nhân vật người vợ hát. Ông đã phác thảo ra bài Giận Mà Thương. Anh Thanh Tùng, cán bộ âm nhạc của tỉnh, chỉnh lý và ghi lại thành bản nhạc. Bài hát đã thể hiện thành công tâm trạng người vợ khuyên anh chồng đừng đi buôn. Đội văn nghệ Diễn Bình biểu diễn và bài hát Giận Mà Thương đã lan nhanh đi khắp nơi trong tỉnh, nhất là qua các đợt hội diễn.
Khoảng đầu năm 1969, nhạc sĩ Đỗ Nhuận, lúc đó là Tổng thư ký Hội Nhạc sĩ miền Bắc Việt Nam, đi công tác vào tuyến lửa. Đến Nghệ An, anh Văn Thế - cán bộ âm nhạc được cử đi cùng, đã hát rất nhiều bài dân ca địa phương để Đỗ Nhuận ghi âm. Trong đó có bài Giận Mà Thương. Nhưng anh Văn Thế lại quên giới thiệu tác giả. Có lẽ vì thế nhạc sĩ Đỗ Nhuận tưởng là một làn điệu dân ca nguyên gốc.
Ngâm thơ:
Anh ơi... ớ à khoan vội (mà) bực mình,
Em xin kể lại (mà) phân minh cho anh tỏ tường.
Anh cứ nhủ rằng em không thương
Em đo lường thì rất cặn kẽ
Chính thương anh nên em bàn với mẹ
Phải ngăn anh không đi chuyến ngược Lường
Giận thì giận mà thương thì thương
Giận thì giận mà thương thì thương
Anh sai đường thì em không chịu nổi
Anh yêu ơi xin đừng có giận vội
Mà trước tiên anh phải tự trách mình
Anh cứ nhủ rằng em không thương
Em đo lường thì rất cặn kẽ
Chính thương anh nên em bàn với mẹ
Phải ngăn anh không đi chuyến ngược Lường
Giận thì giận mà thương thì thương
Giận thì giận mà thương thì thương
Anh sai đường thì em không chịu nổi
Anh yêu ơi xin đừng có giận vội
Mà trước tiên anh phải tự trách mình
Ngâm thơ:
Chứ người ơi, em yêu anh cha mẹ nỏ ưng
Cấm em cửa trước thì em lại vòng ra cửa sau.
Em yêu anh cha mẹ đánh trăm roi,
Chứ xong rồi em đứng (ơ) dậy
Mà em quyết tâm thương chàng
Giận thì giận mà thương thì thương
Giận thì giận mà thương thì thương
Anh sai đường thì em không chịu nổi
Anh yêu ơi xin đừng có giận vội
Mà trước tiên anh phải tự trách mình.

-Lời của bài dân ca là thế này: "Anh ơi khoan vội bực mình/ Em xin kể lại phân minh anh tỏ tường/ Anh cứ nhủ (bảo) rằng em không thương/ Em đo lường rất chi cặn kẽ/ Chính thương anh em bàn với mẹ/ Phải ngăn anh đi chuyến ngược Lường/ Giận thì giận mà thương thì thương/ Anh đi sai đường em không chịu nổi/ Anh ơi anh, xin đừng có giận vội/ Trước tiên anh phải tự trách mình".
Rõ ràng, nghe hát, nhiều người không hiểu được người con trai ấy "đi sai đường", là đường gì mà khiến cô gái "không chịu nổi"? Lại nữa, "chuyến ngược Lường" nghĩa là sao? Họ là vợ chồng hay anh em ruột? (vì có chung người mẹ) v.v...
Xin thưa rằng, lời bài hát trên chỉ là trích đoạn trong vở kịch dân ca Nghệ Tĩnh "Khi ban đội đi vắng" của nhà viết kịch Nguyễn Trung Phong (1929-1990). Ông quê ở làng Trung Phường, xã Diễn Minh, huyện Diễn Châu, Nghệ An, nguyên Phó ty Văn hóa tỉnh Nghệ Tĩnh (gồm 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh hiện nay); là tác giả vở chèo "Cô gái sông Lam" nổi tiếng
"Khi ban đội đi vắng" là vở kịch ngắn, trong đó các nhân vật đối đáp với nhau, giải quyết xung đột bằng cách hát các làn điệu dân ca xứ Nghệ, giống như diễn chèo, cải lương vậy. Nhà viết kịch Nguyễn Trung Phong là một trong những người đầu tiên đưa dân ca Nghệ Tĩnh vào kịch.
Vào những năm đầu thập kỷ 70, một số vở ca kịch của ông, trong đó có "Khi ban đội đi vắng" đã được Đoàn chèo Nghệ Tĩnh và nhiều đội văn nghệ nghiệp dư của địa phương dàn dựng thành công. Năm 1973, Ty Văn hóa Nghệ Tĩnh cũng cho xuất bản tập kịch hát dân ca lấy tên là "Khi ban đội đi vắng", tập hợp một số vở kịch hát của các tác giả Nguyễn Trung Phong, Nguyễn Trung Giáp v.v...
Vở kịch ngắn "Khi ban đội đi vắng" kể về "anh cu Thành", lợi dụng lúc Ban đội đi vắng, định làm một việc phi pháp. "Ban đội" là gọi tắt của Ban quản lý đội sản xuất của Hợp tác xã nông nghiệp thời bao cấp. Nơi "anh cu Thành" nhắm tới là chợ Lường.
Chợ Lường ở mạn ngược, thuộc huyện Đô Lương, Nghệ An, nổi tiếng về buôn bán trâu bò và chè xanh. Dân ở mạn xuôi thuộc các huyện Diễn Châu, Yên Thành… lên mạn ngược mua trâu bò, khoai sắn, chè xanh về xuôi bán kiếm lời gọi là "đi ngược". "Anh cu Thành" tranh thủ "khi ban đội đi vắng", lên chợ Lường buôn lậu gọi là "đi ngược Lường". Trong vở ca kịch này, âm mưu của "anh cu Thành" là "ngược Lường" buôn lậu… chè xanh!
Đó là loại chè người ta chặt cả cành, bó lại thành mớ như mớ rau. Khi cần uống, cấu bớt cành, rửa sạch, cho vào ấm đun như… sắc thuốc bắc! Ngày ấy, đối với dân mạn xuôi, chè xanh là thứ... xa xỉ! Những ông cán bộ như Nguyễn Trung Phong, nhân tiện đi công tác mới dám mua mấy bó chè xanh về thết đãi hàng xóm.
Có lẽ thế hệ trẻ bây giờ, nhiều người không hiểu nổi vì sao thứ chè xanh ngày ấy lại khan hiếm và là hàng quốc cấm? Là bởi, thời bao cấp, hàng nông sản, thực phẩm như chè, lạc, trâu bò, lợn v.v. chỉ được phép bán cho Nhà nước; người nào mang chè xanh, chè búp, lạc v.v... đi bán kiếm lời được cho là buôn lậu.
Vì vậy, mới có chuyện "anh cu Thành" lợi dụng "Khi Ban đội đi vắng" để buôn lậu chè xanh! Bữa đó, Ban đội đi vắng, việc quản lý nhân sự trong đội sản xuất bị buông lỏng. Nhân cơ hội này, "anh cu Thành" quyết đi buôn chè xanh! Nhưng, âm mưu "đen tối" của anh ta nhanh chóng bị cô vợ vạch trần!
Khi biết được âm mưu của chồng, cô ta liền bàn với mẹ chồng, tìm cách chặn đứng hành vi sai trái của anh ta. Biết chuyện, mẹ của kẻ định buôn lậu này là bà Tâm, một đảng viên lâu năm, đã cùng con dâu lập phương án, chặn đứng hành vi "đi sai đường" của "anh cu Thành"!
Âm mưu bị phá, anh cu Thành trách vợ rằng không thương chồng. Cô vợ thanh minh rất quyết liệt rằng, dù anh có "giận thì giận mà thương thì thương", còn cô, trước âm mưu định đi buôn lậu chè xanh của chồng là "sai đường", cô không chịu nổi! Việc cô làm không phải là nông nổi, bồng bột mà đã "đo lường rất chi là cặn kẽ" và được mẹ chồng đồng tình ủng hộ. Anh không thể trách cô là không thương chồng được, mà hãy tự trách mình!
Đoạn thanh minh của người vợ với chồng trong vở ca kịch trên chính là nguyên văn của bài hát "Giận mà thương" mà lâu nay chúng ta được nghe. Và từ hoàn cảnh ra đời bài này có thể giúp thế hệ hôm nay và mai sau hiểu hoàn cảnh sống của một thời thiếu thốn!
(Sưu tầm)

Chủ Nhật, 1 tháng 3, 2015

Giao lưu, tư vấn đầu năm

Sáng nay, Chủ nhật 1/3/2015, nhằm ngày mười một tháng giêng âm lịch, trong không khí đầu xuân ấm áp, bên cạnh những cành đào cành mai rực rỡ khoe sắc dưới những tia nắng đầu mùa, tại Nhà sách Bắc miền trung cạnh Ngã năm TP Vinh, CLB Kinh dịch Nghệ An đã có buổi giao lưu và tư vấn Kinh dịch, Phong thủy với hội Cổ vật NA và một số khách mời. Nội dung chủ yếu đề cập tới là Huyền không phi tinh, Bát trach minh cảnh, các Thần Sát cần lưu ý trong năm Ất Mùi, các phương vị có cát thần, hung thần bay đến và cách hóa giải. Diễn giả là thầy Đức Tâm, một trong những thầy có uy tín, kinh nghiệm của Câu lạc bộ Kinh dịch Nghệ An. Sau phần trình bày của thầy là phần trao đổi, hỏi đáp, tư vấn tại chỗ cho một số trường hợp cụ thể. Đây là hoạt động mở đầu của CLB cho năm Ất Mùi. Buổi giao lưu, tư vấn đã thành công tốt đẹp, để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng khán thính giả. Hi vọng Năm con DÊ sẽ là năm mang đến nhiều thành công, may mắn, tài lộc cho CLB cũng như các hội viên của CLB Kinh dịch Nghệ An.
Quang Đạo: Chủ nhiệm Câu lạc bộ Kinh dịch - Phong thủy Nghệ An